động cho bọn chúa phong kiến tân thời, bọn này chiếm đoạt có khi đến 90%
thu hoạch.
Lấy cớ khuyến khích việc khai khẩn thuộc địa, người ta miễn thuế điền
thổ cho rất nhiều chủ đồn điền lớn.
Đã được không ruộng đất rồi, bọn chủ đồn điền lại còn được
không, hoặc gần như được không cả nhân công nữa. Bọn quan cai trị
cung cấp cho họ một số tù khổ sai làm không công, hay dùng uy
quyền của chúng để mộ cho bọn chủ đồn điền những nhân công làm
việc với một đồng lương chết đói. Nếu những người An Nam đến
không đủ số hoặc họ không bằng lòng thì người ta liền dùng đến vũ
lực; bọn chủ đồn điền liền bắt bọn hương lý, nện vào cổ họ, hành
hạ
cho đến khi những kẻ khốn khổ này chịu ký giấy cam đoan nộp đủ số
nhân công cần thiết mới thôi.
Bên cạnh cái thế lực phần đời ấy còn có những đấng cứu thế phần hồn
nữa, các đấng này trong khi truyền bá đức nghèo cho người An Nam, cũng
không quên tìm cách làm giàu bằng mồ hôi và máu của người bản xứ. ở Nam
Kỳ, chỉ riêng Hội Thánh truyền giáo cũng đã chiếm 1/5 ruộng đất trong vùng.
Mặc dầu trong kinh Thánh không có dạy, song thủ đoạn chiếm đoạt những
đất đai này cũng thật rất giản đơn: đó là thủ đoạn cho vay nặng lãi và hối lộ.
Hội Thánh lợi dụng lúc mất mùa để cho nông dân vay tiền và buộc họ phải
cầm cố ruộng đất. Vì lợi suất tính theo lối cắt cổ, nên người An Nam không
thể trả nợ đúng hạn; thế là tất cả ruộng đất cầm cố bị rơi vào tay Hội truyền
giáo.
Các quan cai trị cả lớn lẫn bé, được nước mẹ giao vận mệnh
xứ Đông Dương cho, nói chung đều là những bọn ngu xuẩn và đểu
cáng. Hội Thánh chỉ cần nắm được trong tay một vài giấy tờ bí
mật, thuộc đời riêng, có tính chất nguy hại đến thanh danh, địa
vị của các quan, là có thể làm các quan hoảng sợ và phải chiều
theo ý họ muốn. Chính vì thế mà một viên toàn quyền đã nhường cho