Nhưng rồi quay qua kệ sách gần nhất, cô tìm thấy một cuốn sách về thiên
văn học đứng kế bên một cuốn về nghệ thuật làm vườn, và kế bên đó lại là
một cuốn về thành phố Salt Lake. Trèo cầu thang lên tầng trên, cô phát hiện
một dãy sách khác chứa tất tần tật đủ thứ sách khác nhau, từ tiểu thuyết của
Charles Dickens đến sách về tượng điêu khắc của Rodin.
Đi ngược xuống cầu thang, cô thảng thốt nói:
– Thật vô lý. Có ai chịu nổi một thư viện không hề có lấy một trật tự nào
chứ? Làm sao ông Rakshasas có thể tìm thấy cuốn sách mình cần nhỉ?
Dybbuk nhe răng cười:
– Thế rốt cuộc chúng ta sẽ tìm thứ mình cần như thế nào đây?
Philippa cắn môi nói:
– Có lẽ cái thư viện này được xếp theo một trật tự nào đó mà tạm thời
chúng ta vẫn chưa nắm được. Nói chung là, giờ chúng ta phải chia nhau ra
mà tìm thôi. John, anh tìm dưới hầm, Buck, cậu lên lầu, còn tớ tìm ở đây.
Trợn mắt lên đến trán, Dybbuk lớn tiếng phàn nàn:
– Tớ ghét thư viện.
Nhưng rồi cậu vẫn lừ đừ tiến về phía cầu thang, dù với một bản mặt như
đưa đám. Trước khi leo lên, cậu ném lại một câu:
– Ờ, sẵn nói luôn, nếu hai cậu muốn tìm sách về rắn, tốt nhất nên nhớ từ
đúng của nó là “herpetology” - “bò sát học”.
Leo xuống hầm, John nói vọng lên:
– Ok, tớ sẽ lưu ý từ đó.
Còn lại một mình, Philippa chầm chậm bước dọc theo một hành lang hẹp
tối mờ mờ với nhũng dãy sách nối đuôi nhau xếp hàng hai bên. Liên tục đảo
mắt qua hai bên nhìn những đầu sách không liên quan gì đến nhau, cô cố giả
vờ như cái thư viện này không làm cô nổi da gà. Nhưng tận trong xương tủy
mình, cô biết có một cái gì đó không bình thường ở đây. Đầu tiên là việc hệ
thống đèn bật tắt tự động. Dù cô đang ở đoạn hành lang nào thì cũng chỉ có
chỗ cô đang đứng là sáng đèn, còn lại đằng trước mặt và phía sau lưng hoàn
toàn phủ kín trong bóng tối. Nó làm cô cảm thấy cô đơn, lạc lõng, cho dù cô