30 mét nhô thẳng lên khỏi mặt nước ngay trước mặt. John để chiếc thuyền
trôi theo dòng thủy lưu một khoảng ngắn, trước khi hướng nó vào bờ.
Nhảy xuống khu nước nông, hai anh em cẩn thận kéo xuồng lên bờ, chính
giữa mấy bụi cây. Một con cú ờ đâu đó “cú cú” vài tiếng như chào đón, và
dần dần, trong ánh sáng trăng mờ mờ phía trên cao, hai anh em nhận ra hình
dáng bên ngoài của một lâu đài mang kiến trúc Ai-len. Và ở khung cửa sổ
trên ngọn tháp canh cao nhất ở một góc, có ánh sáng bập bùng.
Chộp lấy cây đèn pin thứ hai, John đi trước mở đường băng qua các bụi
cây và bước ngược lên một con đường dốc đứng. Philippa theo sát sau lưng
anh cho đến khi hai anh em tới một cây cầu kéo. Ở đó, cô dừng lại và rên
khẽ một tiếng với vẻ không an tâm thấy rõ.
– Ặc, em sẽ không đi tiếp nếu không có một nhánh tỏi và một cây thánh
giá bạc. Và một cái vồ cùng vài cọc gỗ thật nhọn. Ông lái thuyền nói đúng.
Nhìn nơi này xem? Chữ “ma ám” chình ình khắp mọi nơi, đứng xa ba dặm
còn thấy rõ. Mà cái tòa lâu đài Ai-len quái gở này ở đây để làm gì chứ?
Ngay giữa sông Hudson. Có cái gì không ổn ở đây, John.
John hỏi lại, giọng có phần ngán ngẩm:
– Chứ em còn muốn thấy gì khác hả, Phil? Nếu đúng Dybbuk ở trên hòn
đảo này, đương nhiên tòa lâu đài là nguyên nhân khiến cậu ấy đến đây rồi.
Ngoài nó ra thì đâu còn gì khác chứ.
– Vậy nếu cậu ấy không ở đây thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra? Không biết
anh thì sao, chứ em thật không muốn gặp người nào can đảm ở trong một
nơi như thế. Ở cái nghĩa địa em từng thấy còn không đáng sợ bằng hòn đảo
này.
Thật sự cũng sợ không kém gì em mình, tuy nhiên lại giỏi che giấu điều
đó hơn, John đề nghị:
– Bình tĩnh nào, Phil. Hay là thế này: em cứ ở đây chờ, và anh sẽ đi kiểm
tra một vòng xem Dybbuk có ở đây không, rồi sau đó chúng ta sẽ về nhà.
Ok?
Rọi ánh đèn pin ngược lên bức tường của tòa lâu đài trước mặt, Philippa
nhăn nhó phản đối: