vẻ lắm. Chỉ có vài người xiêu tán dựng mấy túp lều bên hồ kiếm ăn bằng
cách mò cua, đánh dậm... Người ta đến rồi lại ra đi. Gần chùa có một túp
lều bỏ hoang, mẹ con cụ ở tạm nơi đó thật kín đáo. Việc dò hỏi tin tức đã có
tôi lo.
Tổ Thu, Ngưu rất ban đêm bơi thuyền lẻn tới ngôi chùa đổ liên lạc với
Phạm Sinh, nghe câu chuyện của mẹ con bà Sử Văn Hoa. vừa ngậm ngùi
vừa bừng bừng nổi giận:
- Cụ Sử Văn Hoa là người tài cao đức trọng, đầy khí tiết, thế mà ngày nay
thân phận tử tù. Nông nôi này do bởi tay ai? Việc giúp đỡ mẹ con bà là
nghĩa cử phải làm của chúng ta.
Từ đó, Phạm Sinh có hai mẹ con bà Sử làm hàng xóm nên cũng đỡ hiu
quạnh. Có Tổ Thu và Ngưu Tất giúp đỡ gạo nước, cộng thêm với đồng tiền
viết mướn của Phạm Sinh, nhưng họ cũng không ỷ lại. Cô con gái tên là
Thị Hạnh vẫn hàng ngày xuống hồ mò cua bắt ốc. Cô bận bịu làm, đi kiếm
ăn xong lại về nấu cơm phụng dưỡng mẹ.
Bà mẹ, cô bán rượu làng Mơ xinh xắn thủa xưa, nghèo khó, nhưng đã
truyền lại cho con gái một gia tài vô giá đó là sự duyên dáng tươi tắn. Cô
Hạnh cũng có đôi mắt bồ câu của mẹ. có tiếng nói trong veo và ấm áp của
mẹ, nhưng cô còn được thừa hưởng thêm sự thông minh sắc sảo của người
cha. Sự thông minh bén nhậy ấy làm cho sắc đẹp của cô trở nên tinh tế hơn.
Cô biết cách nói bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng cái dáng vẻ không nói.
Tất cả những thứ ấy, âm thầm trong con người cô, nhưng nó vẫn toát ra
lặng lẽ mỗi khi ta gặp, để tạo nên một cảm giác mà người đời vẫn gọi là “có
duyên”. Cô Hạnh sợ người ta chú ý, cố dấu nét duyên ấy đi bằng sự lam lũ
nghèo hèn, bang cái bề ngoài nâu sồng lấm láp, bằng chiếc khăn vuông tùm
hụp suốt ngày; sự kín đáo ấy ngay cả trước mặt Phạm Sinh cô vẫn giữ.
Nhưng ngay từ lúc đầu mới gặp, nhìn vào mắt cô, anh đã nhận ra cái duyên
ngay. Đôi mắt người nguỵ trang khó nhất. Anh học trò viết Sử Văn Hoa,
ngày xưa, trong khốn khó đã tìm thấy cái duyên của cô bán rượu làng Mơ
thế nào, thì ngày nay anh chàng viết mướn bơ vơ trong ngôi chùa đổ cũng
nhận ra cái duyên của cô Thị Hạnh như vậy. Một mối tình thầm lặng được
nhen.