dung tự tại của ông vua như chọc vào mắt Cẩn, biến đổi cảm nhận của Cẩn,
làm ông thấy bối rối và bực bội. Cái lý của kẻ quyền sinh quyền sát mà. Tại
sao ông ta không sợ sệt? Nếu không sợ sệt cũng phải lo lắng chứ. Tại sao
ông ta không như một người thường? Khối cơ hội đấy, sao không trốn
chạy? Hay Thuận Tôn nghĩ rằng ông ta thoái vị đi tu là đủ. Dù sao ông
cũng là con rể thái sư Quý Ly. Nhưng lòng dân lại cứ hướng về nhà Trần.
Bọn quan trong triều lại cứ muốn dựng một lá cờ đại nghĩa vì ông. Mấy
đám giặc cỏ, thanh thế chẳng có gì, cũng phất cờ phò Trần, chúng mọc lên
như nấm ở khắp nơi... Thái sư buộc phải muốn ông ta chết.
Chén trà truyền hơi nóng và lòng bàn tay đã nguội đi, Cẩn vẫn mải nghĩ,
quên uống. Chợt giọng Thuận Tôn cất lên làm Cẩn giật mình:
- Ông đang nghĩ tới lẽ sống chết ư? Ta biết lắm chứ...
Ô hay? Ông ta đoán được ý nghĩ của ta. Thế là hai con người chuyển sang
chơi trò nhàn phiếm luận trong hang đá lạnh. Lòng Cẩn đang bộn bề, nhưng
Cẩn lại có thể bình tĩnh nói về lẽ huyền sống chết:
- Hạ thần trước khi tới đây, có vào thăm chùa trên núi Đông Sơn, nghe nói
có vị danh ni đắc đạo thấu được sự huyền nhiệm, coi sống chết bình đẳng,
đã một mình ngồi thiền giữa núi sâu rừng rậm, không ăn uống suốt hai
mươi mốt ngày đêm. Hổ lang ngồi chồm hỗm vây quanh.
Thuận Tôn cười:
- Vị sư nữ này ta biết. Người đời kính mộ bà ngang hàng với các bậc cao
tăng. Chính cha ta Trần Nghệ Vương đã ban hiệu cho bà là “Tuệ Thông đại
sư” . Lúc già bà về tu trên núi Đông Sơn gần đây. Một hôm bà nói với đệ tử
rằng: “Ta muốn đem tấm thân hư ảo này bố thí cho lũ hổ lang ăn một bữa
no”. Rồi bà đi một mình vào thiền định trong rừng sâu gần một tháng. Song
chẳng con hổ nào dám xông vào ăn thịt bà cả.
- Tuệ thông đại sư. Nghĩa là con mắt bà nhìn thấu được cả lòng người?
- Ta nghe nói trong lòng ông vẫn có một giọng nói vang lên khuyên nhủ?
Nguyễn Cẩn giật mình: nhà vua biết cả chuyện riêng của ta ư? Rồi Cẩn trả
lời:
- Vâng, tiếng nói ấy vẫn vang trong đầu óc hạ thần. Nó báo về một thời đã
hết và một thời đang tới.