cờ lọng nghinh tiếp, rước vào văn miếu ăn uống nhậu nhẹt để nghe quan
Thám, quan Bảng nhãn, quan Trạng nguyên ban « huấn từ ».
Các vị tân khoa trẻ còn được « hoa cù hồng phấn nữ, tranh khán lục y
lang »
, có khi còn được một bực khuê các cành vàng lá ngọc nào đó « gieo
cầu » ! Thật là vinh hiển tổ tông !
Các ông Ngô Tất Tố trong LỀU CHÕNG, Chu Thiên trong BÚT
NGHIÊN, NHÀ NHO, diễn tả rất đầy đủ cái thời vàng son ấy của các bực
đại khoa.
Rồi thì làm quan, mà quan là cha mẹ dân, có quyền sinh sát trực tiếp
hay gián tiếp. « Một người làm quan, cả họ được nhờ ».
Vì vậy mà một khi hoàn cảnh cho phép, mọi người đều « dùi mài kinh
sử » vì « thư trung hữu nữ nhan như ngọc »
lại có cả giàu sang, quyền thế,
bảng vàng, bia đá để tiếng nghìn năm !
Tâm trạng kính quan, trọng bằng ấy cho đến thời này chỉ mới phai lợt
nhờ công kỹ nghệ, thương mãi phát triển.
Vì vậy, ngay cả những nhà cách mạng chân chính, quyết tâm xả thân
phục vụ quê hương dân tộc cũng phải cày cục kiếm mảnh bằng trước khi
hoạt động. Cụ Phan Bội Châu đâu có muốn làm quan huyện, quan đốc, vẫn
phải lều chỏng đi thi cố đoạt cho được cái Giải nguyên : cụ Phan Châu Trinh
cũng là một quan Nghè ; các cụ nghè Ngô Đức Kế, nghè Huỳnh Thúc
Kháng kiếm chân đại khoa để lấy uy tín hầu hoạt động cách mạng mới hiệu
quả.
Các nhà cách mạng Tây học chống Pháp thời thuộc địa, được nhân dân
chú ý nhiều nhất như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch,
Phan Văn Hùm đều xuất thân từ những trường đại học Pháp với những văn
bằng khá to đối với thời ấy : cử nhân luật khoa, cử nhân văn chương…
Khi nho học tàn tạ, « ông nghè ông cống cũng nằm co » thì bằng cấp
Tây lại có giá. Có được cái « đíp-lôm », cái « brờ-vê », là làm được thầy ký
thầy thông cũng danh giá chán, rồi có thâm niên ba năm được thi tham tá,
thâm niên sáu năm được thi huyện. Đậu là tương lai rực rỡ ngay. Có tú tài,