cũng phải bất kỳ một năm cụ thể nào khác mà là cả một giai đoạn 1789-
1815, khi cuộc sống của người Pháp có những biến chuyển lớn. Bourbon có
thể quay trở lại nhưng đó là một trật tự mới ở Pháp chứ không phải là chế
độ cũ. Những gì xảy ra sau năm 1815 chính là trở lại của các cuộc xung đột
tư tưởng giai đoạn trước, khi các triều đại nối tiếp nhau từ thời phục hưng
Bourbon tới triều đại tháng bảy từ nền Cộng hòa đệ Nhị tới Đế chế thứ hai
và cuối cùng là nền Cộng hòa đệ Tam. Vì thế, Cuộc cách mạng vĩ đại và Đế
chế thứ Nhất đã trở thành một mảnh đất màu mỡ cho các tác giả với những
hệ tư tưởng khác nhau khai thác dựa trên những vấn đề chính trị của thời
đại. Dù ủng hộ hay chống đối Napoleon, dù coi ông là nhà lãnh đạo vĩ đại
của Cuộc cách mạng hay là một tên bạo chúa chuyên quyền, thì mọi quan
điểm đều phản chiếu thái độ của tác giả đối với chế độ mà họ đang đề cập
tới.
Đối với những người trung thành với thiên chúa giáo, Cuộc cách mạng vẫn
được xem là một điều tồi tệ, đã phá hủy mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà thờ
và triều đình. Theo họ, nó đã dấy lên làn sóng vô thần được khuấy động bởi
những kẻ tham lam và không kính chúa, những kẻ đã báng bổ nhà thờ và
những nơi linh thiêng khác. Và vai trò của Napoleon, nhất là khi ông lạm
dụng giáo ước với Pius VII, đã làm gia tăng sự tức giận của nhà thờ bởi nó
đe dọa giới tu sĩ, giam cầm những giám mục cấp cao và đưa ra hành lang
pháp lý việc tịch thu và bán đất đai thuộc về nhà thờ. Vấn đề này được thể
hiện rất rõ trong các tác phẩm của Joseph de Maistre, Chateaubriand và
được tái hiện lại nhiều lần trong tác phẩm gồm 5 tập của d’Haussonville,
L’Eglise romaine et le premier Empire, xuất bản năm 1868-1869. Quan
điểm của d’Haussonville rõ ràng là đã thay đổi đáng kể. Là một người theo
đạo thiên chúa tự do, d’Haussonville lấy phần lớn cảm hứng từ Lamennais
và không có quan hệ tốt đẹp với Rome. Ông cũng khâm phục Bà de Stäel,
người đã được nuôi nấng trong một gia đình Thụy Sĩ theo đạo Tin Lành và
là họ hàng xa của ông.