quả nghiên cứu thực nghiệm. [22] Những tiêu chí này ít chú trọng đến hành
vi hơn trước, do đó phần nào tương tự các tiêu chí cho các rối loạn nhân
cách khác trong DSM-IV.
Theo Robert Hare, Cleckley, Lobaczewski và nhiều chuyên gia khác về
chứng thái nhân cách, chẩn đoán chứng thái nhân cách không thể chỉ dựa
trên cơ sở hành vi nhìn thấy bên ngoài mà không xem xét đến các triệu
chứng về cảm xúc hay quan hệ cá nhân, bởi vì cách chẩn đoán như vậy về
cơ bản sẽ biến nhiều người chỉ bị tổn thương tình cảm bởi cuộc sống hay xã
hội thành thái nhân cách, trong khi để cho những kẻ thái nhân cách thực sự,
những kẻ có những chiếc "mặt nạ của sự bình thường" rất tốt, lọt lưới.
Ngày một nhiều những nghiên cứu cho thấy nhiều (hay phần lớn) những kẻ
thái nhân cách lớn lên trong những gia đình ổn định, sung túc và trở thành
tội phạm trí thức, nhờ vào tiền bạc và địa vị, không bao giờ để lộ các hành
vi hủy hoại trong đời tư của chúng cho công chúng biết và thường là có khả
năng nằm ngoài tầm tay của hệ thống tư pháp. [23]
Công trình được biết đến rộng khắp của Robert Hare và Paul Babiak
trong cuốn sách Snakes in Suits (Rắn độc mặc Com lê) của họ chứng tỏ
rằng chứng thái nhân cách cần được chẩn đoán thông qua một bảng điểm
toàn diện lập bởi những người quan sát trình độ cao dựa trên phỏng vấn
tâm lý, xem xét lịch sử cá nhân bao gồm cả hồ sơ hình sự và tâm thần nếu
có, các cuộc phỏng vấn với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, người quản lý và
nhân viên dưới quyền, cùng với việc quan sát hành vi bất cứ lúc nào có thể
được.
Các tiêu chí của DSM-IV không cấu thành một thang điểm hay một bảng
trắc nghiệm. Theo đó, người giám định chỉ quyết định xem mỗi tiêu chí là
hiện hữu / đúng hay vắng mặt / sai. Quyết định cuối cùng là: nếu tất cả các
tiêu chí đều hiện hữu, một chẩn đoán ASPD cho cả đời được đưa ra; nếu
một tiêu chí hay nhiều hơn không thỏa mãn, không có chẩn đoán nào được
đưa ra. Chúng ta có thể thấy là nhiều kẻ thái nhân cách sẽ dễ dàng tránh bị