cửa mặt tiền. Vì vậy khi cô vừa ba chục tuổi xuân mà vẫn chưa chồng,
chúng tôi đúng ra nào có sung sướng gì, nhưng cũng cảm thấy được hả
giận. Ngay cả khi có chứng điên trong gia đình, cô cũng chẳng bỏ lỡ tất cả
những cơ hội may mắn nếu quả những cơ hội đó có đến thật.
Khi thân phụ cô qua đời, người ta đồn rằng tất cả của cải để lại cho cô chỉ
còn căn nhà đó, dân chúng về một phương diện nào đó có vẻ bằng lòng.
Bây giờ thì họ có thể rủ lòng thương hại cuộc đời cô được rồi. Bị bỏ lại
trong cô độc và nghèo nàn lúc ấy cô mới thấm thía nhân tình, lúc ấy cô mới
hiểu thế nào là niềm vui hoặc nỗi buồn của một đồng xu kiếm được hoặc
mất đi.
Sau hôm thân phụ cô mất tất cả các bà đều sẵn sàng qua nhà cô để phân ưu
và giúp đỡ theo thông lệ. Cô Emily tiếp họ ở cửa, cô ăn bận như ngày
thường, tuyệt không một nét buồn rầu thoáng hiện, cô bảo các bà là thân
phụ cô không chết. Cô cũng đã nói như vậy ba ngày liên tiếp với các mục
sư đến viếng, với các y sĩ đến thuyết phục cô để lo liệu cho xác chết. Mãi
đến lúc họ định dựa vào pháp luật để cưỡng bách cô thì cô mới nhượng bộ,
và họ vội vàng chôn cất cha cô.
Chúng tôi không cho là cô điên. Chúng tôi nghĩ là cô chẳng thể nào làm
khác được, chúng tôi nhớ tới những chàng trai trẻ mà thân phụ cô đã xua
đuổi đi, và chúng tôi hiểu giờ đây cô thấy chẳng còn có gì, nên phải bám
víu lấy cái đã tước đoạt mọi thứ nơi cô như mọi người vẫn thường làm
thế....
3.
Cô đau khá lâu. Khi chúng tôi gặp cô thì tóc cô cắt ngắn trông cô như con
gái, phảng phất tựa những hình thiên thần vẽ trên cửa kính màu ở nhà thờ,
vừa có vẻ bi thảm vừa có vẻ trong trắng.