Năm 1943, nhà thơ ba mươi tuổi và là một trong những thủ lĩnh quan
trọng nhất của lực lượng kháng chiến chống phát xít. Uy tín của ông vượt
ra ngoài biên giới quốc gia và, sau nhiều lần thử không thành công, một
máy bay quân sự Xô Viết cuối cùng đã hạ cánh được ngay gần chiến tuyên
Đức và đưa ông về Moscow. Ilya Ehrenbourg và Boris Pasternak đang chờ
ông ở đó. Trước ủy ban chống phát xít của Do Thái, ông báo cáo về những
cuộc nổi dậy trong những khu biệt cư của Warsaw và Vilnius và yêu cầu ba
điều chủ chốt có khả năng cứu được nhiều mạng người: ra quyết định, vũ
trang và đoàn kết.
Giới trí thức mời ông ở lại Liên Xô, giới nhà thơ ca ngợi tài thơ của
ông, thậm chí còn tặng ông giải Stalin, nhưng Avrom Sützkever chối bỏ tất
cả và quyết định vị trí của ông là nơi chiến tuyến.
Chiến tranh kết thúc, Sützkever là một nhân chứng chủ chốt trong vụ
kiện Nuremberg xét xử những tên lãnh đạo phát xít cấp cao, sau đó, chán
ghét việc xuất hiện quá nhiều, năm 1947, trên con tàu có tên Tổ quốc, ông
đến Palestine - nơi mỗi viên đá là người ông của tôi - trước ngày ra đời nhà
nước Israel.
Tôi chưa từng gặp mặt nhà thơ Do Thái Avrom Sützkever, nhưng ông
đã dạy tôi rằng chúng ta, những người mơ mộng phải biến mình thành
những người lính. Tôi biết ông sắp sang tuổi tám mươi tám và chắc chắn
ông ghét việc người khác đề cập đến tuổi tác đáng kính của mình, vì
rằng những người già chết ngay giữa tuổi thanh xuân / và những người ông
chỉ là những đứa trẻ giả trang.
Tôi chưa từng gặp ông nhưng những vần thơ và tấm gương của ông
đồng hành cùng tôi như rượu vang và bánh mì.