“Vâng”, Mirsat nói với họ, “đặc biệt khi trời mưa. Hagia Sophia có xấp xỉ
chín nghìn ba trăm mét vuông mái cần thoát nước, và thường phải mất hàng
ngày trời. Và thông thường trời lại đổ mưa trước khi nước kịp thoát hết.
Tiếng nước nhỏ giọt rất phổ biến ở đây. Có lẽ các vị biết rằng Hagia Sophia
ở bên trên những hang nước rất lớn. Có hẳn một phim tài liệu mà…”.
“Đúng, đúng”, Langdon lên tiếng, “nhưng anh có biết liệu chỗ nước nghe
rất rõ ở đây, tại mộ của Dandolo này, chảy tới một chỗ nào đó cụ thể
không?”.
“Dĩ nhiên”, Mirsat nói. “Nó chảy tới cùng chỗ mà toàn bộ nước trút
xuống từ Hagia Sophia chảy tới. Đó là bể chứa của thành phố.”
“Không”, Brüder lên tiếng, chân bước qua rào chắn. “Chúng tôi không
tìm kiếm bể chứa nước. Chúng tôi tìm một không gian ngầm rất lớn, có lẽ
còn có cả những cột trụ nữa?”
“Đúng rồi”, Mirsat nói. “Bể chứa nước cổ của thành phố chính là nơi đó -
một không gian ngầm rất lớn có cột trụ. Thực tế là rất ấn tượng. Nó được
xây dựng vào thế kỷ VI để chứa nguồn cấp nước của thành phố. Còn bây giờ
nó chỉ còn khoảng hơn một mét hai nước, nhưng…”
“Nó nằm ở đâu!”, Brüder hỏi, giọng anh ta vang rền trong không gian
trống trải.
“Cái… bể nước hả?”, Mirsat hỏi lại, vẻ sợ hãi. “Cách đây một dãy nhà,
ngay phía đông tòa nhà này.” Anh ta chỉ tay ra bên ngoài. “Nó được gọi là
Yerebatan Sayari.”
Sayari sao? Langdon thắc mắc. Giống như trong Topkapi Sayari à? Tấm
biển chỉ dẫn Cung điện Topkapi xuất hiện thường xuyên lúc họ lái xe tới
đây. “Thế… sayari có phải nghĩa là ‘cung điện’ không?”
Mirsat gật đầu. “Đúng vậy. Tên bể nước cổ của chúng tôi là Yerebatan
Sayari. Nó có nghĩa là… cung điện chìm.”