Jacques cố hé mắt nhìn. Ngược lại, tiếng ồn chói tai ngân lên trong đầu tôi,
như tiếng vọng khuếch tán khiến tôi xây xẩm mặt mày. Tôi có cảm giác căn
phòng chao đảo quanh mình.
Tôi khó nhọc tiến về phía trước. Chân tôi muốn khuỵu xuống. Tôi cố
gắng sức, duỗi tay ra. Jacques vẫn nhìn chằm chằm vào tôi. Hắn vẫn chưa
trông thấy con dao. Vẫn chưa nhìn thấy. Tôi chầm chậm giơ nó lên.
Neptune sủa bên ngoài, ngay dưới cửa sổ phòng chúng tôi. Lát sau, tiếng
còi xe cấp cứu vọng qua sân nhà xay bột. Tiếng bánh xe lạo xạo trên sân
đá. Hai cái bóng lờ mờ, màu trắng và xanh da trời trong quầng sáng của
chiếc đèn xoay trên nóc xe, đi ngang qua cửa sổ rồi gõ cửa.
Họ đưa Jacques đi, tôi đã ký hàng đống giấy tờ, thậm chí chẳng cần đọc,
chẳng buồn hỏi bất cứ điều gì. Vẫn chưa đến 6 giờ sáng. Họ hỏi xem tôi có
muốn đi cùng trên xe cấp cứu không, tôi trả lời là không, tôi nói sẽ đi xe
khách hoặc taxi sau vài tiếng nữa. Các y tá không nói gì.
Chiếc hộp nhôm vẫn nằm trên sàn, mở toang. Con dao vẽ nằm trên bàn
phấn. Cuốn sách của Aragon nằm lẫn trong các nếp gấp của lớp ga trải
giường. Tôi không biết tại sao nhưng sau khi xe cấp cứu đi khỏi, ý tưởng
đầu tiên đến trong đầu tôi là trèo lên kho lục lọi tất cả các ngóc ngách ở
tầng áp mái để tìm bức tranh cũ phủ đầy bụi, bức hoa súng của tôi, bức
tranh tôi đã vẽ khi mười một tuổi.
Bức tranh mà tôi đã vẽ hai lần, lần đầu dùng rất nhiều màu sắc để có thể
chiến thắng cuộc thi của quỹ Robinson, sau đó thì vẽ bằng màu đen, sau cái
chết của Paul.
Tôi nhấc khẩu súng săn của Jacques trên tường xuống và treo bức tranh
vào chỗ đó, vào đúng cái đinh đó, trong một góc mà không ai khác ngoài
tôi có thể trông thấy nó.
Tôi ra ngoài. Tôi cần phải hít thở khí trời. Tôi dẫn theo Neptune đi cùng.
Mới gần 6 giờ sáng. Chỉ trong vài giờ ngắn ngủi, Giverny còn vắng người.
Tôi sẽ đi dọc theo con sông nhỏ phía trước nhà xay bột.
Và hồi tưởng lại những kỷ niệm xưa.