không nghe thấy, nó nhìn mà như không trông thấy, và nó muốn, ôi muốn
khẽ chạm biết chừng nào vào…
Dù sao đi chăng nữa thì vào cuối mười ngày đầu tiên, Agatha không còn
bỏ chạy nữa, nó luôn ở đâu đó gần chúng tôi: hoặc đứng ngoài cửa hay ngồi
trên ghế xa xa, dưới bóng cây, còn khi kéo đi dạo chơi thì nó đi theo chúng
tôi ở phía sau, cách chừng mươi bước.
Còn Bà thì sao? Bà đợi chờ, Bà không dỗ dành và cũng không ép uổng.
Bà chỉ làm công việc của mình, nấu bữa ăn sáng, bữa trưa và bữa chiều,
nướng bánh nhân mứt mơ. Bà luôn luôn bỏ bánh lại lúc ở chỗ này, lúc ở chỗ
khác, dường như bà muốn thu hút cô gái nhỏ ưa của ngọt. Và quả nhiên là
qua một tiếng đồng hồ những đĩa bánh ấy đã hết sạch trơn, những chiếc
bánh nướng và bánh bao đã bị chén hết, Bà chẳng được lời cảm ơn và điều
gì khác cả. Còn Agatha tươi cười đang ngồi trượt xuống theo thành tay vịn
lan can cầu thang, cằm dính đầy bột đường và những mẩu bánh vụn.
Còn tôi và Timothy thì có cảm giác như chỉ vừa kịp chạy lên đỉnh đồi đã
trông thấy Bà ở xa xa phía dưới và chúng tôi lại vụt chạy theo Bà.
Nhưng thích thú nhất là mỗi người chúng tôi thấy dường như Bà hết lòng
quan tâm đến chính riêng mình.
Mà Bà biết cách nghe chúng tôi nói nữa chứ! Bà nhớ từng lời, từng câu,
giọng điệu, từng ý nghĩ của chúng tôi, thậm chí những điều bịa đặt phi lý
nữa. Chúng tôi hiện rõ ràng trong trí nhớ của Bà. Trí nhớ ấy như chiếc ống
đựng tiền để dành, chứa đựng mỗi ngày qua của chúng tôi, và nếu như
chúng tôi muốn xem những gì chúng tôi đã nói trong ngày nào, giờ nào hay
trong phút giây nào đó, chúng tôi chỉ cần hỏi Bà, Bà không để chúng tôi
phải chờ đợi.
Đôi lúc chúng tôi thử kiểm tra Bà.
Tôi nhớ một lần tôi cố tình ba hoa chuyện lăng nhăng gì đó, rồi tôi đứng
lại, nhìn bà và hỏi:
— Bà ơi, Bà nhắc lại xem cháu vừa nói gì ấy nhỉ?