sao?”.
Cô im lặng một lúc, mắt dán chặt vào những hình ảnh nhấp nháy trên
màn hình. “Bố em đến từ Ukraine”, cô nói. “Kiev. Ông là thành viên duy
nhất trong gia đình còn sống sót sau chiến tranh. Những người còn lại đã bị
lùa đến Babi Yar và bị bắn chết cùng với ba mươi ngàn người Do Thái
khác. Khi chiến tranh kết thúc, ông đến Palestine. Ông lấy tên Do Thái là
Sard, nghĩa là phần còn sót lại. Ông cưới mẹ em, và họ sinh được sáu đứa
con, một đứa đại diện cho một triệu người đã bị giết hại ở Shoah. Em là con
út. Họ đặt tên em là Dina: báo thù”.
Tiếng nhạc đột ngột lớn lên, rồi tắt hẳn. Sau khi nhạc tắt, tất cả những âm
thanh còn lại là tiếng sóng vỗ vào mạn tàu. Mắt Dina đột nhiên nhắm lại,
như thể cô đang nhớ về một nỗi đau thể chất. Ánh mắt cô vẫn đóng khung
hình ảnh đại lộ Rémy, nhưng Gabriel có thể thấy rằng đường Dizengoff mới
là nơi đang chiếm lĩnh tâm trí cô.
“Sáng ngày 19 tháng 10 năm 1994, em đang đứng ở góc đường
Dizengoff và Queen Esther cùng mẹ và hai người chị gái. Khi chiếc xe buýt
số 5 đến, em hôn mẹ và các chị và đứng nhìn họ leo lên xe. Trong lúc cửa
xe vẫn còn chưa đóng lại, em nhìn thấy hắn”. Nàng dừng lời và ngoảnh lại
nhìn Gabriel. “hắn ngồi ngay sau lưng tài xế, với một cái giỏ xách đặt giữa
hai chân. Hắn nhìn em. Hắn có khuôn mặt thật ưa nhìn. Không, em nghĩ,
điều đó không thể xảy ra. Không phải chiếc xe buýt số 5 trên đường
Dizengoff. Bởi vậy, em đã không nói gì. Cánh cửa đóng lại và chiếc xa bắt
đầu lăn bánh”.
Đôi mắt cô giờ đây đã chứa chan dòng lệ. Cô úp hai bàn tay lên vết sẹo
trên chân nàng.
“Thằng bé ấy đã mang theo thứ gì trong túi xách, em đã nhìn thấy nhưng
không nói gì? Hắn mang theo một quả mìn Ai Cập, đó là thứ hắn đựng
trong túi xách. Hắn có hai mươi kilôgam chất nổ quân sự TNT và những
cây đinh cài bên trong quả mìn đều được nhúng trong thuốc diệt chuột. Ánh
chớp loé lên trước, và theo sau là tiếng nổ. Chiếc xe buýt văng lên cao vài
mét rồi rơi trở xuống mặt đường. Em ngã lăn ra đất. Em nhìn thấy mọi
người đang la hét xung quanh em, nhưng không nghe thấy gì – sóng chấn