của mình. Tôi trách những nhà lãnh đạo của chúng tôi. Nếu Haj Amin và
những người khác chấp nhận việc phân chia lãnh thổ, thì miền Tây Galilee
đã trở thành một phần của Palestine. Nhưng họ chọn chiến tranh và đến khi
thua trận thì họ khóc lóc rằng người Arập chỉ là những nạn nhân. A’one
cũng làm y như thế ở trại David phải không? Ông ta ngoảnh mặt làm ngơ
trước một cơ hội phân chia đất đai, ông ta châm ngòi một cuộc chiến khác,
và đến khi người Do Thái đánh trả, ông lại bù lu bù loa rằng mình là nạn
nhân. Chẳng biết bao giờ chúng tôi mới khôn ra”.
Con dê quay trở lại. Lần này thì già al-Samara quất cho nó một cú vào
mũi bằng cái tẩu thuốc.
“Chắc chắn là các anh chẳng lặn lội tới đây để nghe câu chuyện của một
lão già”.
“Tôi đang tìm một gia đình ở cùng làng với ông, nhưng tôi không biết
tên của họ”.
“Chúng tôi đều biết nhau rất rõ”. Già al-Samara nói. “Nếu bây giờ chúng
ta đi qua những phế tích của làng Sumayriyya, tôi có thể chỉ cho anh nhà
của tôi – và nhà của bạn bè tôi, nhà của anh em họ của tôi nữa. Hãy nói vài
điều gì đó về gia đình mà anh cần tìm, tôi sẽ cho anh biết tên của họ”.
Gabriel kể cho cụ nghe những điều mà ả người Palestine đã nói với anh
trong những dặm đường cuối cùng trước khi về đến Paris – rằng ông nội
của ả là một bậc trưởng lão trong làng, tuy không phải là muktar nhưng vẫn
là một người quan trọng, và ông ta sở hữu 60.000 met vuông đất cùng với
một đàn dê lơn. Ông ta có ít nhất một người con trai. Sau khi Sumayriyya
thất thủ, họ chạy về phía bắc, đến Ein al-Hilweh ở Libăng. Già al-Samara
lắng nghe những lời mô tả của Gabriel một cách chăm chú nhưng có vẻ hơi
lúng túng. Ông gọi vọng vào nhà. Một bà lão, cũng như ông, xuất hiện ở
cửa. Đầu của bà được che kín bởi một chiếc khăn choàng. Bà chỉ nói
chuyện với al-Samara, cẩn thận tránh ánh mắt của Gabriel và Yaakov.
“Anh chắc chắn là 60.000 mét vuông đất?”, ông cụ hỏi. “Không phải ba
mươi, hoặc hai mươi, mà là sáu mươi?”