chuột nào khác, nhưng cũng không có con nào đạt được mức thông minh
cao hay duy trì được lâu như Algernon.”
Ngay lập tức, tôi nhận ra rằng mình đã không được cho biết thông tin
này. Tôi nghi ngờ lý do nêu trên, và tôi rất cáu, nhưng cơn giận đó chẳng
thấm vào đâu so với cơn giận khi họ mang ra các cuộn phim.
Tôi không hề biết rằng những thể hiện ban đầu của tôi và những bài
kiểm tra trong phòng thí nghiệm lại được quay phim. Tôi ở kia, chỗ chiếc
bàn bên cạnh Burt, bối rối há miệng ra khi tìm cách chạy trong mê cung
bằng bút điện. Mỗi lần bị điện giật, tôi lại trố mắt nhìn một cách ngớ ngẩn
và sau đó lại mỉm cười ngờ ngệch. Mỗi lần như thế là một lần khán giả cười
rộ lên. Cuộc đua này nối tiếp cuộc đua khác, hành động này lặp đi lặp lại và
càng lúc càng buồn cười hơn.
Tôi tự nhủ họ không phải là những kẻ hiếu kỳ ngu ngốc mà là những
nhà khoa học đang đi tìm kiến thức. Họ không thể không cảm thấy buồn
cười trước những hình ảnh này – nhưng khi Burt hứng chí lên và đưa ra
những lời bình luận chọc cười thì tôi thực sự cảm thấy bị tổn thương. Sẽ
còn buồn cười hơn nữa khi được chứng kiến cảnh Algernon thoát ra khỏi
lồng, được chứng kiến tất cả lũ người này chạy khắp nơi và bò lăn bò toài
ra để bắt lại một thiên tài nhỏ bé màu trắng chạy vụt đi.
Nhưng tôi kiềm chế được, và khi Strauss bước lên bục thì cơn giận của
tôi cũng trôi qua.
Strauss trình bày về lý thuyết và các kỹ thuật phẫu thuật thần kinh, mô tả
chi tiết các cuộc nghiên cứu trước đây trong vấn đề xác định trung tâm kiểm
soát hormone đã tạo điều kiện cho anh ta cô lập và kích thích các trung tâm
đó như thế nào, đồng thời loại bỏ phần vỏ não sản sinh ra chất ức chế
hormone ra so. Anh ta giải thích về lý thuyết phong tỏa enzyme, sau đó mô
tả điều kiện sức khỏe của tôi trước và sau khi phẫu thuật. Các bức ảnh (tôi
không biết là họ có chụp ảnh) được mọi người chuyền tay nhau và bình