Người thầy giáo cười và vẫy đám học sinh. “Vậy, nếu m-mua chỗ này,
ông sẽ ph-phải nhận cả ch-chúng ta. Và ông ấy sẽ phải kiếm gỗ cho ch-
chúng ta l-làm.”
Lúc anh ta dẫn tôi đi thăm xưởng, tôi nhận thấy các cậu bé yên lặng một
cách lạ lùng. Các em tiếp tục công việc đánh bóng hoặc quét véc-ni những
chiếc ghế mới làm xong, nhưng không nói câu nào.
Như thể cảm nhận được thắc mắc mà tôi chưa kịp nói ra, anh ta nói:
“Anh biết đấy, c-các em kh-không nói được.Trẻ c-câm đ-điếc.”
Winslow giải thích: “Chúng tôi có một trăm lẻ sáu em như thế, cho
chương trình nghiên cứu đặc biệt mà chính quyền liên bang tài trợ.”
Thật không thể tin được! Các em thiệt thòi hơn người khác bao nhiêu.
Chậm phát triển trí tuệ, điếc, câm - vậy mà vẫn hăm hở đánh bóng ghế.
Một câu bé đang dùng ngàm bó chặt một khối gỗ bỗng dừng lại, vỗ vào
tay Winslow và chỉ về phía góc nhà, nơi một số thành phẩm đang được phơi
khô trên giá trưng bày. Cậu bé chỉ tiếp vào cái chân đèn trên chiếc giá thứ
hai, sau đó tự chỉ vào mình. Sản phẩm đó thật tệ, lỏng lẻo, các miếng keo
dán mặt gỗ nhìn thủng lỗ chỗ, còn lớp vec-ni thì đánh vụng và không đều
tay. Winslow cùng thầy giáo hết lời khen ngợi, còn cậu bé thì mỉm cười một
cách tự hào và nhìn tôi, chờ đợi lời khen của tôi.
“Tốt,” tôi gật đầu, miệng thốt ra những lời cường điệu, “rất tốt... rất
đẹp”. Tôi nói vì cậu bé cần được nghe những lời như thế, nhưng trong lòng
tôi thấy trống rỗng. Cậu bé cười với tôi, và khi chúng tôi quay người ra về,
cậu chạy tới và chạm vào tay tôi như chào tạm biệt. Điều này làm tôi thấy
nghẹn ngào, và phải khó khăn lắm tôi mới kiềm chế được cảm xúc bản thân
cho đến khi chúng tôi quay trở lại hành lang.
Hiệu trưởng là một phụ nữ thấp, mập, có dáng dấp của một bà mẹ. Bà
mời tôi ngồi xuống trước một tấm bảng viết thẳng tăm tắp, ghi thông tin về