3
CHƯƠNG 56
BÌ BỘ LUẬN THIÊN
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
Hoàng-ðế hỏi rằng :
--.
Trẩm nghe BÌ (da) có phận bộ ; MẠCH có kinh-kỷ ; CÂN có kết-lạc ; CỐT có ñộ lượng… Chủ về bịnh ñều có
khác nhau. Vậy tả hữu, trên dưới, và âm-dương ở ñâu, sinh ra bịnh trước hay sau thế nào, xin cho biết rõ ?
Kỳ-Bá thưa rằng :
--.
Muốn biết BÌ-BỘ, phải dùng kinh-mạch ñể ghi nhớ. Các kinh khác ñều như vậy.
(1)
(1)-. Luồng mạch ñi thẳng mà ở sâu gọ là KINH ; luồng mạch nổi hiện lên ở trong da là LẠC. Muốn biết phận bộ của BÌ,
nên nhận ở Lạc-mạch là cái mình có thể trông thấy ñược ñể phân biệt. Nhưng vẩn phải lấy kinh mạch làm tiêu chuẩn. Bởi “LẠC”
chỉ là con ñường “nhánh” của “KINH”. Như kinh mạch của Phế, dẫn ñi ở khoảng Ngư-Tế, Thiên-trạch, Nhu-lặc, vậy ta cứ do ở
các nơi ñó ñể tìm nhận lạc-mạch của Phế. Mà cái “bì” ở bên ngoài nơi lạc mạch hiện lên ñó, tức là bộ phận của PHẾ làm chủ.
Ta trông sắc nó, nếu xanh nhiều là thuộc Hàn ; hoàng hoặc xích là thuộc Nhiệt. Lạc hư thời dẫn vào Kinh ; kinh mãn thời ký túc
luôn vào Phế-tạng… Mười hai kinh kia ñều như vậy.
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
Dương-lạc của Dương-minh gọi là HẠI-PHI. Trên dưới (tức Thủ Túc Dương-minh) cũng một phép xét nhận. Hể
thấy trong bộ phận, có “phù-lạc” hiện lên, tức là lạc của Dương-minh. Trông xem sắc của nó, nếu xanh nhiều là
“thống”, ñen nhiều là “tý”, hoàng và xích là nhiệt, trắng nhiều là hàn. Nếu 5 sắc ñều hiện là vừa hàn vừa nhiệt. Ở
Lạc mà thịnh nhiều, sẽ dẫn vào Kinh.
(1)
. Dương chủ về bịnh ở ngoài. Âm chủ về bịnh ở trong.
(2)
(1)-. Phàm tà trúng vào con người, bắt ñầu từ bì-phu, rồi ñến Lạc-mạch. Nếu cứ lưu ở ñó, sẽ truyền vào kinh. Nên nhận
xét cái sắc của phù-lạc ở bì bộ, có thể biết ñược chứng hậu ra sao. – Tà ở lạc ñã thịnh mà không “tả” bỏ ñi, nó sẽ dẫn vào kinh.
Tà ở bộ phận của Dương-minh, sẽ phát sinh chứng hậu của Dương-minh, tại các kinh kia cũng vậy.
(2)-. ðây nói về kinh-lạc cũng chia ra âm-dương, nội ngoại. Kinh nói : “nội” có âm dương, “ngoại” cũng có âm dương. Về
ngoại, bì phu là Dương, cân cốt là Âm. Cho nên hiện ra ở ngoài bì phu là Lạc, thuộc Dương ; mà chủ về bịnh ở bên ngoài.
Chằng vào trong khoảng cân cốt là Kinh, thuộc âm. Mà chủ về bịnh ở bên trong.
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
Dương-lạc của Thiếu-dương gọi là KHU-CHÌ. Trên dưới cùng một phương-pháp. Hể thấy trong bộ phận có
“phù-lạc” hiện lên, tức là Lạc của Thiếu-dương. Lạc thịnh thởi dẫn vào kinh. Cho nên Dương thời chủ dẫn vào, ở
Âm thời chủ dẫn ra, ñể lại thấm vào trong. Các kinh khác ñều như vậy.
(1)
(1)-. ðoạn này lại nói về kinh-khí từ trong mà dẫn ra ngoài. 5 Tạng trong hợp với 6 khí, tức là âm dương của ñất ; 6 kinh
ngoài hợp với 6 khí, tức là âm dương của trời. 6 khí của trời hợp với 5 hành của ñất ở dưới ; 5 hành của ñất hợp lên 6 khí của
trời. Vì vậy, khí của 6 kinh ở ngoài, theo khí Dương mà dẫn vào trong ; khí của kinh mạch ở trong, theo khí Âm mà dẫn ra
ngoài. Ra tới bì phu, lại do bì phu mà dẫn vào cơ nhục, cân cốt, ñể thấm nhuần vào Mạc-nguyên của Tạng-phủ, rồi lại suốt
thẳng vào Tạng-phủ. ðó là sự tuần hoàn của kinh-mạch.
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
Dương-lạc của Thái-dương gọi là QUAN-KHU. Trên dưới cùng môt phương pháp. Hể thấy trong bộ phận có phù
lạc hiện lên, tức là lạc của Thái-dương. Lạc thịnh thời dẫn vào kinh.
Âm-lạc của Thiếu-âm gọi là KHU-NHU. Trên dưới cùng một phương pháp. Hể thấy trong bộ phận có phù lạc
hiện lên, tức là Lạc của Thiếu-âm. Lạc thịnh thời dẫn vào kinh. Khi dẫn vào kinh, qua Dương-bộ ñể rót vào kinh ;
khi dẫn ra, do Âm-bộ rót vào trong cốt.
(1)