4
(1)-. ðoạn này nói về sự tuần hoàn của mạch-khí, do kinh dẫn ra, lại từ ngoài dẫn vào mà rót vào cốt, nên lại thuật lại cho
rõ.
Án : câu “
khi dẫn vào kinh, qua Dương-bộ ñể rót vào kinh….”
ðó là nói về tà khí từ ngoài dẫn vào. Câu “
khi dẫn ra, do
Âm-bộ rót vào trong cốt..”
ñó là nói về chính-khí từ trong dẫn ra ngoài.
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
Âm-lạc của Tâm-chủ gọi là HẠ-KIÊN. Trên dưới cùng phương pháp. Hể thấy trong bộ phận có phù-lạc hiện lên,
tức là lạc của Tâm-chủ. Lạc thịnh thời dẫn vào kinh – (“trên” tức Thủ Quyết-âm Tâm-chủ ; “dưới” tức Túc Quyết-
âm CAN).
Âm-lạc của Thái-âm gọi là QUAN-CHẬP. Trên dưới cùng phương pháp. Hể thấy trong bộ phận có phù-lạc hiện
lên, tức là lạc của Thái-âm. Lạc thịnh thời dẫn vào kinh.
Phàm lạc-mạch của 12 kinh, ñều có hiện ra ở bì-bộ.
Xem ñó thời biết : trăm bịnh khi mới phát sinh ñều trước từ bì mao. Tà trúng vào nó thời tấu lý mở ra. Tấu lý
mở ra thời phạm vào Lạc-mạch. Nếu cứ ñể nó ở ñó mà không tả bỏ ñi, thời nó sẽ truyền kinh. Vào kinh mà vẫn ñể
vậy, thời nó lại truyền vào Phủ và ký túc ở TRƯỜNG-VỊ.
Tà khí mới phạm vào bì mao, thời các chân lông ñều “sẩn” cả lên, rồi tấu lý mở ra mà dẫn vào lạc. Khi vào lạc
thời lạc mạch thịnh, sắc biến ñi. Khi dẫn vào kinh thời khí của Tạng-phủ bị hư mà lõm xuống ; nếu lưu ở khoảng
cân cốt, hàn nhiều thời cân rút, cốt ñau, nhiệt nhiều thời cân trùng, cốt tiêu, thịt sút, xương khoai nứt nẻ ; lông tóc
cứng thẳng, các bại chứng ñều phát sinh.
Hoàng-ðế hỏi rằng :
--.
Mười hai bộ của BÌ, phát sinh bịnh thế nào ?
Kỳ-Bá thưa rằng :
--.
BÌ là bộ phận của mạch. Tà phạm vào bì thời tấu lý mở ra, do ñó tà phạm vào lạc-mạch ; lại do lạc-mạch
phạm vào kinh-mạch. Kinh mạch mãn thời phạm vào Tạng-phủ. Vậy biết : Bì cũng có bộ phận, vì khí bất cập mới
gây bịnh, nên bịnh lớn. ./.
-- o0o --