27
LỤC NGUYÊN CHÍNH KHÍ LUẬN nói : «
Thái-âm khí biến thành mây mưa ».
Bởi cái khí Thấp-thổ thăng lên mà thành ra
mây mưa. ðại, tiểu phúc ñau. Do bịnh ở Thận-tạng, Thổ thắng mà Thuỷ bị thương. – THẬN là nguồn gốc của sinh khí. Thận khí
bị tà nên tay chân quyết lãnh – Thận tàng CHÍ, Chí không ñược thư sướng nên không vui. – THẬN là gốc của khí huyết, Thận bị
thương nên thân thể nặng nề mà phiền oan. Tuế-Thổ thái quá, nên trên ứng với CHẤN TINH thêm sáng. Chấn-tinh tức Thổ
tinh, Thổ vận thái quá tức là cái năm thuộc về GIÁP.
(2). Cơ nhục và tứ chi do TỲ làm chủ. – Vì Tỳ-khí không chuyển du ñược, nên thành chứng ẨM và chứng ðỜM… -- Vì
« dâm thắng quá lắm » khiến cho bản vị lại bị hư mà tự thương. Nên những ngày từ 18 trở ñi thuộc về TỨ-QUÍ, chính là thời kỳ
Thổ khí ñắc vị, lại gây nên tật bịnh.
(3). « Tạng khí » tức là Thuỷ khí ; « hoá khí » tức là Thổ khí. Thổ thắng thời chế Thuỷ vì vậy Tạng khí bị phục… « sông
nước tràn… » là vì Thấp dâm thái quá. « mưa gió tơi bời… » ñó là do Thuỷ khí lại phục – « phúc mãn, ñương tiết… » ñều
thuộc về chứng TỲ hư. « Thái-khê » tức là mạch của Thận. « Tả nhiều » là do Thổ bại, nên Thuỷ bị trút xuống , tức là Thận
tuyệt, nên không thể chữa. TUẾ TINH Tất sẽ sáng hơn, tức là MỘC lại bị lỡ theo.
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
TUẾ-KIM thuộc thái quá, Táo khí lưu hành, do ñó MỘC sẽ thụ tà. Con người cũng ứng theo mà lưỡng Hiếp và
Thiếu-phúc ñau, mắt ñỏ và ñau ; tai không nghe tiếng ; khí túc sái càng lắm khiến thân tể nặng nề và phiền oan.
Hung ñau rút sang lưng, 2 hiếp mãn và ñau rút xuống Thiếu-phúc. Trên ứng với sao THÁI-BẠCH.
(1)
Qúa lắm thời khái, suyễn và nghịch khí ; kiên và Bối ñau , cầu âm (xương khu) cổ (vế) tất (gối) bễ (ñùi) hành
(ống chân) ñều mắc bịnh. Trên ứng với sao HUỲNH HOẶC.
(2)
Thâu khí mạnh quá, sinh khí bị phục, cỏ cây xơ xác vàng rụng ; gây thêm bịnh bạo thổng ở 2 hiếp, không thể
trở mình ; khái nghịch, quá lắm thời huyết tràn. Thái-xung mạch tuyệt, chết, không thể chữa. Trên ứng với sao
THÁI-BẠCH.
(3)
(1). Vì Táo khí tràn lan, khiến CAN mắc bịnh, ñau ở Hiếp cũng là bịnh Can ; Can khai khiếu lên mắt nên mắt ñau. Can hư
nên tai không nghe tiếng. PHIỀN OAN là do Can khí không ñược thư sướng. Bản kinh nói : «
Thận hư, Can hư, Tỳ hư ñều khiến
thân thể nặng nề và hiền oan ».—
Thái-Bạch là KIM TINH. Kim khí thắng nên trên ứng với sao Thái-bạch, sẽ sáng tỏ hơn trước.
kim-vận thái quá thuộc các năm về CANH.
(2). «
Túc sái quá lắm »
ñó là do kim khí tự hư mà Hoả khí lại phục. «
Suyễn, khái, nghịch khí… »
ñều là kinh của Phế,
Phế-du ở kiên, bối, nên kiên bối ñau. – Cầu âm, cổ, tất v.v… ñó là bởi kim khí hư quá mà lây tới cái nơi sinh ra nó là Thuỷ-tạng.
– Kim dâm thái quá thời lại bỏ hư cái bản vị của mình. Kim hư không thể sinh ñược Thuỷ, do ñó Hoả không còn sợ gì nữa, liền
thừa cơ ñể phục thù.
(3). «
Thâu khí »
tức là kim khí ; « sinh khí » tức là Mộc-khí. Thâu quá mạnh, khiến sinh khí bị phục nên khiến cỏ cây úa
rụng… «
ðau ở Hiếp mà không thể trở mình thuộc bịnh về CAN, ðỞM. »
mạch của CAN suốt lên PHẾ, nên gây chứng khái
nghịch ; Can chủ tàng huyết. Can bịnh nên huyết ràn. Thái-xung tức là Du-mạch của CAN.
TRƯƠNG NGỌC SƯ nói :
« tuế-mộc thái quá, không có kim khí báo phục, thời nói rằng : sinh khí ñộc trị, tức là một mình
chủ về khí của năm ».
Thuộc về tuế-vận thái quá ñến Thu mà lại thắng, cho nên «
thâu khí mạnh… »
ở về mùa Thu, ðông, cái
sinh khí của Xuân-dương ñã tới cho nên nói «
sinh khí hạ .v.v… » ñều nên nhận kỹ.
_____________________________ KINH VĂN _______________________________
Tuế-thuỷ thuộc thái quá, thời Hàn khí lưu hành, tà sẽ làm hại TÂM-Hoả. Con người cũng ứng theo mà mắc
bịnh thân nhiệt, phiền tâm, táo và Qúi ;
Âm-quyết cả trên dưới ; Trung, Hàn ; Thiềm vọng, Tâm thống. Hàn khí ñến sớm, trên ứng với THẦN-TINH.
(1)
Quá lắm thời Phúc ñại, hình thũng (xương ống chân sưng) ; suyễn, khái ; khi nằm hãn ra ; ghét gió. Mưa to
ñến, mây mù ñen ñặc. Trên ứng với CHẤN-TINH.
(2)
Thượng-lâm Thái-dương, mưa ñá, thỉnh thoảng tuyết sương giáng xuống ; Thấp khí làm biến mọi vật ; bịnh lại
sinh ra phúc mãn. Trường minh, ñường tiết ; ăn không tiêu, khát, hay chóng mặt. Thần-môn mạch tuyệt, sẽ chết,
không thể chữa. Trên ứng với sao HUỲNH-HOẶC.
(3)
(1). Vì Thuỷ vận thái quá, chân khí tràn lan, cho nên tà làm hại Tâm hoả. Vì hàn khí lấn lên, dồn Tâm khí bốc nóng ra
ngoài, cho nên mình nóng. « Tâm phiền, tâm quý » là do Thuỷ khí lăng phạm lên Tâm. « Táo » là do Hoả khí không giao với
Âm. Âm khí quá lạnh, nên quyết nghịch cả trên và dưới. « Trung hàn » là do TAM-TIÊU hoả suy. Tâm thần không yên nên
« Thiềm vọng » ; hàn chủ về ðông lịnh, ñây vì hàn khí tràn lan, nên hàn khí sớm ñến. THẦN TINH tức là THUỶ TINH. Thuỷ vận
thái quá tức là các năm BÍNH, THÌN.
(2). ðây nói về Thuỷ dâm quá gây nên « tự thương » tức là cái lẽ « mãn chiêu tổn ». Vì Thận mắc bịnh nên Phúc ñại, hình
thũng. Suyễn, khái, nằm ra hãn và ghê gió v.v… ñều do thuỷ tà tràn ngập, thổ không chế ñược, nên mới gây nên các chứng
ñó. Khí của Thái-dương, sinh ra ở trong Thuỷ, mà làm chủ ở phu biểu. Thuỷ tràn thời nguồn kiệt, không còn gì giúp cho
Dương-khí ở phu biểu, khiến dương hư, nên hãn ra và ghê gió…
(3). « thượng lâm Thái-dương » là nói về khí Hàn thuỷ tư thiên, gia lâm ở trên, tức là 2 năm BÍNH THÌN, BÍNH TUẤT, và
cũng tức là năm thuộc về Thiên phù. Vì hàn với thuỷ ñều thịnh, nên sương tuyết thường xuống ; vì mưa xuống, nên Thổ bị
Thấp mà mọi vật ñều biến, do ñó nới sinh ra các chứng Phúc mãn. Trường minh… ðều là cái chứng thuỷ ràn mà Thổ bại. TỲ
thổ không chuyển du ñược tân dịch, nên thành chứng khát ; vì Thấp-khí bốc lên nhiều nên hoa mắt chóng mặt. Thần-môn tức
là Tâm-mạch. Thuỷ-khí rất mạnh nên HUỲNH-HOẶC thất sắc, mà Thần-tinh càng tỏ.