45
(5). Quyết-âm phong mộc gia lâm lên ngũ khí, cho nên Xuân lịnh lưu hành… loài cỏ ñược sinh khí nên lại tốt tươi. Cái uất
của Thiếu-âm nhờ ở Mộc khí mà thư sướng, ñiều ñạt, cho nên dân khí hoà.
(6). Cái khí của Thiếu-âm quân hoả gia lâm lên CHUNG KHÍ, cho nên cái Dương khí tại toàn, ñược ñể thư sướng, tán bố,
mà cái tiết hậu mùa ðông trở lại ôn-noãn. Cho nên loài chập trùng (loài sâu nằm kin ở trong hang, trong tổ) không ẩn nấp, mà
nước không thành băng. ðịa khí ñược thư sướng, cho nên dân mới an khang. Nếu có tai sảnh xảy ra sẽ là bịnh Ôn, tức ðÔNG
ÔN. – Bịnh này với Thương-hàn khác nhau rất xa.
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
Cho nên ăn tuế-cốc cho yên chính khí ; nên ăn “gián-cốc” ñể trừ tà khí
(1)
. Nên dùng các vị Hàm, vị Khổ, vị Tân
; dùng các phép thanh, phép hãn, phép tán
(2)
. Làm cho yên vận khí, ñừng ñể thụ tà
(3)
; nên chiết bỏ uất khí mà
giúp cho Hoá-nguyên
(4)
; dùng các khí hàn, nhiệt, khinh, trọng, mà chế hoặc ít, hoặc nhiều. Nếu ñồng Nhiệt thời
nhiều Thiên-hoá ; ñồng Thanh thời nhiều ðịa-hoá.
(5)
Dùng lương, nên xa thời kỳ lương ; dùng nhiệt nên xa thời kỳ nhiệt ; dùng hàn, nên xa thời kỳ hàn ; dùng ôn,
nên xa thời kỳ ôn…. Việc ăn, nên cùng một phương pháp. Có “giả” thời trái lại, ñó là ñạo chính. Nếu trái phương
pháp ñó, sẽ làm loạn kinh của trời ñất, và rối cái “kỷ” của Âm-dương.
(6)
(1). “TUẾ-CỐC” tức là một thứ lúa cảm thụ cái khí tư thiên tại toàn mà sinh ra. “GIÁN-CỐC” tức là một thứ lúa cảm cái
gián-khí của trời ñất mà sinh ra.
(2). Nên dùng vị hàn ñể thanh cái nhiệt của Quân hoả. Nên dùng vị Tân, ñể nhuận cái táo của Dương-minh ; Nên dùng vị
Khổ ñể tiết bỏ cái hỏa uất ở bên trong.
Dùng phép phát hãn ñể giải bỏ cái hàn ở ngoài biểu ; dùng phép thanh ñể tiêu giải cái tà lọt vào trong ; dùng phép tán ñể
giải bỏ cái khí ðông ôn.
(3). Vì vận khí bất cập nên phải làm cho yên, ñừng ñể tà thắng.
(4). Chiết bỏ cái khí tư thiên tại toàn ñể giúp cho cái Hoá nguyên của 5 vận.
(5). Dùng hàn ñể làm cho thanh cái hoả nhiệt tại toàn ; dùng nhiệt ñể chế cái táo kim tư thiên. Nếu “ñồng” thời dùng
nhiều, nếu “dị” thời dùng ít. Vậy phải xét sự khinh trọng của hàn nhiệt, ñể chế hoặc nhiều hoặc ít. Như : những vận thuộc về
THIẾU-CHUỶ, THIẾU-GIÁC, cùng với các nhiệt của Thiếu-âm, nên lấy nhiều cái khí thanh lương do thiên hoá ñể chế lại. Những
vận thuộc về THIẾU-THƯƠNG, THIẾU-CUNG, THIẾU-VŨ… cùng một cái thanh của Dương-minh, nên lấy nhiều cái khí hoả nhiệt
do ðịa hoá ñể chế lại. (Thiên hoá tức là khí thanh lương của táo kim, ðịa khí tức là khí Hoả nhiệt tại toàn).
(6). Cái khí thanh lương của Dương-minh tư thiên, lẽ tất nhiên là nên dùng ôn nhiệt rồi. Nếu “NHỊ-CHI-KHÍ” lại là 2 thứ
hoả quân, tướng, thời lại phải cách xa thời kỳ ñó 60 ngày, mới có thể dùng ôn nhiệt. Cái khí Thiếu-âm quân hoả tại toàn, lẽ tất
nhiên là nên dùng hàn lương rồi. Nếu chủ khách của “TỨ-CHI-KHÍ” lại là hàn thuỷ, thấp thổ,…. Thời lại phải xa thời kỳ ñó 60
ngày, mới có thể dùng hàn lương… “Có giả…” là nói về cái khí hàn, nhiệt, ôn, lương, của 4 mùa. Không phải là tư thiên tại toàn,
với cái chính khí của gián khí, lại cần phải “trái ngược lại” ñể ñiều trị. ðó là cái phương pháp làm cho ñiều hoà Thiên. ðịa. Âm.
Dương vậy. Nếu làm trái phương pháp ñó, sẽ làm loạn mất sự kinh-thường của tư thiên tại toàn, và rối mất “kỷ bộ” của Âm-
dương, gián khí …
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
Hoàng-ðế hỏi :
--. Chính lịnh của Thiếu-dương như thế nào ?
Kỳ-Bá thưa rằng :
--. Thuộc về những năm DẦN, THÂN. – Thiếu-dương tướng hoả tư thiên ; THÁI-GIÁC hoá vận ; Quyết-âm
phong mộc tại toàn.
Phàm cái chính của những năm Thiếu-dương tư thiên khí hoả vận hành Tiên-thiên. Thiên khí chính
(1)
ðịa khí
nhiễu (rối loạn)
(2)
.
Phong sẽ nổi to, cây ñổ, cát bay ; khí viêm hoả mới lưu hành ; mưa sẽ thường xuống
(3)
Hoả với Mộc cùng
ñức, tên ứng với HUỲNH-HOẶC, TUẾ-TINH. Về loài cốc sẽ hiện sắc ðan (ñỏ) thương (xanh) ; chính của nó nghiêm,
lịnh của nó nhiễu.
(4)
Cho nên Phong với Nhiệt cùng tán bố, mây khói tung bay. Thái-âm tràn lan, thường gặp khí lạnh, mưa gió dồn
dập.
(5)
Dân mắc bịnh Hàn-trung ; ngoài mọc lở mụn, trong sinh tiết mãn. Cho nên thánh nhân gặp những năm ñó hoá
mà không tranh. Sự vãng phục phát sinh, dân mắc bịnh Hàn nhiệt, Ngược, Tiết, Tủng (ñiếc), Minh (mắt mờ), Âủ
thổ, trên mặt ñau và sưng, sắc biến.
(6)
(1). Những năm DẦN, THÂN chủ về thái quá. Sáu khí ñều trước Thiên-thời mà ñến.
(2). “Thiên khí chính” là nói về : Thiếu-dương tư thiên mà khí khí-hoá lại lưu hành ở trong khoảng “khí giao”. Bởi vì “NHỊ
ÂM, TAM DƯƠNG” ở dưới, cho nên dẩu chủ về tư thiên, mà khí dẫn xuống ở khoảng giữa (trung). Tiết dưới “Quyết-âm tư
thiên” mà ghi là “ðịa-khí chính…” ñó là nói cái khí Thiếu-dương tại toàn, mà cũng lưu hành ở khoản trung. Vì Thiếu-dương là
“trung kiến” của Quyết-âm, nên mới như vậy.