HOÀNG ĐẾ NỘI KINH TỐ VẤN - Trang 208

47

(tức là kim) sẽ bị uất. Những năm GIÁP DẦN, GIÁP THÂN, Quyết-âm tại toàn thời Cung-vận (tức là thổ) sẽ bị uất. Vậy nên chiết
bỏ cái khí gây nên uất. Trước lấy ở cái hoá-nguyên của 2 vận, chiết bỏ cái thái quá, ñể giúp thêm cho cái “sở bất thắng”, nên
“bạo vận” không thể sinh ra mà bịnh ñộc cũng không khởi lên ñược. ---“Bạo…” tức là nói về cái vận khí của những năm THÁI-
CUNG, THÁI-THƯƠNG chủ về thái quá, mà lại bị uất, nên phát ra quá bạo và gây thành bịnh nặng.

(8). Ở trên : Thái-dương tư thiên, Thái-âm tại toàn, thời nói trước “dùng hàn nên xa thời kỳ hàn vv…” ; ñến Thiếu-dương

tư thiên, Quyết-âm tại toàn, thời nói trước : “dùng nhiệt, xa thời kỳ nhiệt vv….” ðó là nói về phàm dược, thực thuộc về tuế-vận
hàn hay nhiệt, nên xa lánh cái khí tư thiên tại toàn ñó.


_________________________________ KINH VĂN ______________________________________

Hoàng-ðế hỏi :

--. Chính, lịnh của Thái-âm như thế nào ?

Kỳ-Bá thưa rằng :

--. Thuộc về những năm Sửu, Vị (Mùi) Thái âm thấp thổ Tư thiên, Thiếu giác hóa vận, Thái dương hàn thủy

Tại toàn.

Phàm cái chính của những năm Thái âm Tư thiên, khí hóa vận hành ñều hậu thiên (sau thiên thời mới ñến, tức

là bất cập) ; âm khí chuyên chính, dương khí rút lui, gió lớn thường thổi ; khí trời giáng xuống, khí ñất bốc lên,

ñồng ruộng khói tỏa, bụi trắng tung bay, mây về phương nam, thường tuôn mưa lạnh ; mọi vật trưởng thành về

mùa trường hạ, do ñó, dân mắc bệnh hàn thấp, phúc hãn, mình phù, thân thũng, bĩ nghịch, hàn quyết, câu cấp

(tay chân co rút). Thấp với hàn hợp ñức, nên “vàng ñen” tối tăm, lưu hành ở trong khí giao, trên ứng với CHấN-

TINH, THầN-TINH, chính nó là nghiêm ngặt, bệnh nó yên lặng. Về loài cốc, sắc kiềm huyền (vàng, ñen)

(1)

.

Cho nên âm “ngừng” ở trên, hàn tích ở dưới ; thủy hàn thắng hỏa, thời biến thành băng bộc (nước cứng, mưa

ñá), dương quang không thể phát triển, cái khí túc sái sẽ lưu hành

(2).

Cho nên: hữu dư nên ở nơi cao, bất cập nên ở nơi thấp. Hữu dư nên sớm, bất cập nên muộn, ñó là do ñịa lợi

và khí hòa. Dân khí cũng theo ñó

(3)

.



(1). Thái-âm tư thiên, hàn thuỷ tại toàn, cho nên âm khí chuyên chính, mà dương khí rút lui. Thổ lịnh bất cập, phong lại

thắng ñược. Cái khí hàn thấp của trời ñất hỗ giao với nhau nên ñồng ruộng khói toả, bụi trắng tung bay… “

Dân bịnh vv…

” ñều

cảm cái khí hàn thấp mà gây nên.

(2). Thấp-khí của Thái-âm ngưng ở trên, hàn khí của Thái-dương tích ở dưới. Hàn thuỷ thắng hoả, nên mới gây nên băng

bộc. – Dương-khí ở trên, bị Âm ngưng nó thắng, nên cái khí túc sái mới lưu hành.

(3). ðây nói về Thổ-ñịa của 5 phương ñều có cao, thấp, hậu, bạc, khác nhau. Cho nên tuế khí hữu dư, thời thổ ñịa nên

cao, hậu ; tuế khí bất cập, thời thổ ñịa nên ti, hạ (thấp, thũng). Bởi cái khí thái quá thời nên hoãn, cái khí bất cập thời nên
trước ; ñịa thổ cao hậu thời khí tiết ra hoãn ; thổ ñịa ti hạ, thời khí dễ thăng lên ; khí hữu dư thì nên ñến chậm, khí bất cập thời
nên ñến sớm… ñó là “

ñịa lợi có cao hạ, khí ñến có sớm muộn, mà dân khí cũng theo ñó”

vậy.



_________________________________ KINH VĂN ______________________________________

“SƠ CHI KHÍ”, ñịa khí thay ñổi; hàn mới ñi, xuân khí chính; phong mới ñến, sinh khí tán bố, muôn vật tươi tốt,

dân khí thỏa thuê. Phong với thấp cùng sát với nhau, mưa tới muộn, dân mắc bệnh huyết giật, cân lạc câu cường

(co rụt, cứng ñờ) quan tiết (các khớp xương) không lợi, mình nặng, cân nuy (rã rời)

(1).

“NHị CHI KHÍ” ñại hỏa mới thịnh, mọi vật nhờ sự sinh hóa, dân mới hòa. Chứng ôn lệ lưu hành nhiều, xa gần

ñều mắc, khí thấp bốc lên, thường có mưa to

(2).

“TAM CHI KHÍ”, thiện chính tán bố, khí thấp giáng xuống, khí ñất bốc lên.Thường có mưa, khí lạnh nối theo.

Cảm về khí hàn thấp ñó, nên dân mắc bệnh mình nặng, hung phúc mãn, hoặc trướng

(3)

.

“TỨ CHI KHÍ”. Ủy hỏa mới tới, hơi nóng nung nấu, khí ñất bốc lên, khí trời bĩ cách, sớm chiều gió lạnh, cỏ cây

khói tỏa, thấp hóa không tan, do ñó móc trắng ñêm xa ñể thànhThu lệnh. Dân mắc bệnh tấu lý nhiệt huyết bạo

giật, ngược, tâm phúc mãn, nhiệt trướng, quá lắm thời phù thũng

(4)

.

“NGŨ CHI KHÍ”, cái bệnh âm thảm ñã lưu hành, móc rơi, sương xuống, cỏ cây úa rụng ; Khí hàn buốt da, nên

phải phòng bị cẩn mật, dân sẽ mắc những bệnh ở ngoài cơ tấu

(5)

.

“CHUNG CHI KHÍ” khí hàn ñại cử, khí thấp ñại hóa, sương mới tích, âm mới ngưng, nước rắn thành băng, khí

dương quang không thể phát triển. Vì cảm phải khí hàn, nên mắc bệnh quan tiết, yêu chùy thống

(6)

.

Phải chiết bỏ uất khí, mà lấy ở hóa nguyên, giúp cho tuế khí, ñừng ñể tà thắng

(7)

.

Trong năm, nên dùng vị khổ ñể làm cho táo, làm cho ôn, quá lắm thời dùng phép cho nó “phát” ra, cho nó

“tiết” ra. Nếu không phát, không tiết, thời thấp khí sẽ ràn ra ngoài, thịt thối, da nứt, khiến thuỷ huyết ñều chảy.

Phải giúp cho dương hỏa, ñể ngăn khí hàn, theo khí dị ñồng, ñể ñịnh ñíều hay ít, nếu ñồng hàn, thời dùng nhiệt

hóa, ñồng thấp, thời dùng táo hóa, dị thời dùng ít, ñồng thời dùng nhíều

(8)

Dùng lương nên xa thời kỳ lương ; dùng hàn nên xa thời kỳ hàn ; dùng ôn nên xa thời kỳ ôn ; dùng nhiệt nên

xa thời kỳ nhiệt. Về ăn cũng cùng một phương pháp. Có giả thời dùng trái lại, ñó là chính ñạo. Nếu trái phương

pháp ñó sẽ gây nên bệnh.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.