5
(2). NHIỆT là khí của Hoả, Thuỷ có thể thắng ñược nó, cho nên dùng những vị hàm và hàn ñể ñiều trị, mà dùng vị khổ và
cam làm tá. Cam thắng ñược hàm, dùng ñể phòng sự quá ñáng của hàm ; vị khổ có thể tiết, cốt ñể trừ bỏ cái thực của nhiệt.
Toan là vị của Mộc, Hoả sinh ra bởi Mộc… Dùng vị toan ñể thâu lại, tức là thâu cho hoả trở về gốc. Nhiệt uất ở trong mà không
giải ñược, nên dùng vị khổ ñể phát ra.
(3). THẤP là khí của âm Thổ, cho nên phải dùng vị khổ và nhiệt ñể ñiều trị, vì khổ thắng ñược thấp, mà nhiệt ñể hoà âm.
Toan theo mộc hoá, nên tá bằng vị toan và ñạm ; dùng vị khổ ñể làm cho táo ; vì khổ theo hoả hoá ; dùng vị ñạm ñể làm cho
tiết, vì vị ñạm có cái tính chất thấm tiết thuộc về Dương.
(4). Vì HOẢ dâm, nên trị bằng vị hàm và lãnh. Khổ hay tiết, tân hay tán, nên dùng vị khổ và tân làm tá…
(5). TÁO là cái khí thanh lương của kim, cho nên dùng vị ôn ñể ñiều trị. Táo thời khí kết ở trong, cho nên tá bằng tân, cam
ñể phát tán, và dùng vị khổ ñể hạ.
(6). HÀN là thuỷ-khí, thổ thắng ñược thuỷ. Nhiệt thắng ñược hàn, cho nên dùng cam và nhiệt ñể ñiều trị.
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
Hoàng-ðế hỏi :
--. Thiên-khí biến như thế nào ?
Kỳ-Bá thưa rằng :
--. Quyết-âm tư thiên, bị Phong dâm nó thắng… Dân mắc bịnh vị quản giữa tâm mà ñau ; rút lên hai hiếp,
cách yết không thông, uống ăn không xuống, lưỡi cứng ñờ, ăn vào thời ẩu ; lãnh tiết, phúc trướng ; ñường tiết
(ñại tiện nát) ; giả (hòn nổi lại tan) ; ñường thuỷ vít. Bịnh vốn ở TỲ. Xung-dương mạch tuyệt, chết không thể
chữa.
•
Thiếu-âm tư thiên, bị Nhiệt-dâm nó thắng. Dân mắc bịnh trong hung phiền nhiệt, ách can, hữu hiếp mãn ;
bị phu thống ; phát hàn nhiệt, khái và suyễn, thoá huyết (nhỗ ra huyết) ; huyết tiết ; cừu, nục, sị, ẩu ; tiểu tiện
sắc biến. Qúa lắm thời thương-dương, phù thũng ; kiên (vai) bối (lưng), tý nhu (cánh tay) và trong khuyết-bồn
ñều ñau. Tâm thống, phế trướng, bụng lớn và mãn, hoặc bụng trương mà khái và suyễn. Gốc bịnh ở PHẾ, mạch ở
Xích-trạch tuyệt, chết, không thể cứu chữa.
•
Thái-âm tư thiên, bị Thấp-dâm nó thắng. Dân mắc bịnh phù thũng, cốt thống, âm tý, án tay vào không
ñược ; yêu tích, ñầu, hạng thống ; thỉnh thoảng hoa mắt ; ñại tiện khó ; âm khí không phát triển ; ñói mà không
muốn ăn ; khái, thoá thời thấy có cả huyết ; trong bụng nghe bào hao… Bịnh gốc ở THẬN. Mạch ở Thái-khê tuyệt,
thời chết không thể chữa.
•
Thiếu-dương tư thiên, bị Hoả-dâm nó thắng. Dân mắc bịnh : ñầu thống, phát nhiệt, ố hàn mà ngược.
Nhiệt phát ra bì phu bị ñau ; sắc biến ra vàng hoặc ñỏ ; gây nên chứng Thuỷ ; mình, mặt phù thũng ; bụng ñầy
vượt, phải ngửa lên mà thổ ; kiết lỵ ñỏ hoặc trắng ; mụn lở ; ho, nhổ ra huyết ; phiền tâm, trong hung nhiệt ; quá
lắm thời cừu, nục… Bịnh gốc ở PHẾ. Mạch ở huyệt Thiên-phủ tuyệt, sẽ chết, không chữa ñược.
•
Dương-minh tư thiên, bị Táo-dâm nó thắng… Dân mắc bịnh tả khư hiếp ñau ; khí hàn tràn lan, cảm thành
bịnh ngược ; khái, trong bụng sôi ; tiết tả như phân cò ; tâm huyết bạo thống, không thể trở mình ; ách can, mặt
nhờn, yêu thống. ðàn ông ñồi sán, ñàn bà thiếu-phúc ñau ; mắt mở và loét, lở láy. Bịnh gốc ở CAN. Mạch Thái-
xung tuyệt, sẽ chết không thể chữa.
•
Thái-dương tư thiên, bị Hàn-dâm nó thắng. Dân mắc bịnh huyết biến ở bên trong, phát thành ung dương
(mụn lở) ; quyết tâm thống ; ẩu huyết ; huyết tiết, cừu nục, hay bi (thương cảm) thỉnh thoảng chóng mặt, ngả
ngất ; hung, phúc mãn ; lòng bàn tay nóng ; khuỷu tay co lại ; nách sưng ; trong lòng lạnh lẽo khó chịu ; hung
hiếp vị quản ñều không yên ; mặt ñỏ mắt vàng, hay ợ, họng khô. Quá lắm thời sắc mặt ñen xạm, khát, muốn
uống nước. Bịnh gốc ở TÂM. Mạch ở huyệt Thần-môn tuyệt, sẽ chết không thể chữa.
ðó chính là : chỉ xét ở ñộng khí, thời sẽ biết ñược 5 Tạng ra làm sao.
Hoàng-ðế hỏi :
--. ðiều trị như thế nào ?
Kỳ-Bá thưa rằng :
--. Về khí tư thiên, bị Phong dâm nó thắng ; bình bằng vị tân và lương ; tá bằng vị khổ và cam. Dùng vị cam
ñể làm cho hoãn ; dùng vị toan ñể làm cho tả.
(1)
•
Bị Nhiệt-dâm nó thắng ; bình bằng vị hàm và hàn, tá bằng vị khổ và cam. Dùng vị toan ñể làm cho thâu
lại.
(2)
•
Bị Thấp-dâm nó thắng ; bình bằng vị khổ và nhiệt, tá bằng vị toan và tân. Dùng vị khổ ñể làm cho táo ;
dùng vị ñạm ñể làm cho tiết. Thấp ở bộ phận trên, quá lắm mà nhiệt, trị bằng vị khổ và ôn ; tá bằng vị cam và tân
; ñể cho hãn ra thời thôi.
(3)
•
Bị Hoả-dâm nó thắng ; bình bằng vị toan và lãnh, tá bằng vị khổ và cam. Dùng vị toan ñể thâu lại, dùng vị
khổ ñể phát ra ; lại dùng vị toan ñể cho phục lại. Cùng một phương pháp trị chứng Nhiệt-dâm.
(4)
•
Bị Táo-dâm nó thắng ; bình bằng vị khổ và ôn, tá bằng vị toan và tân. Dùng vị khổ ñể hạ xuống.
(5)
•
Bị Hàn-dâm nó thắng; bình bằng vị tân và nhiệt, tá bằng vị khổ và cam. Dùng vị hàm ñể tả
(6)
(1). Án : về khí tại toàn, nói : “nhiệt dâm ở trong vv…” và nói “trị bằng…” ; về khí tư thiên, thời nói : “nó thắng…” nói
“bình….” Bởi Thiên khí ở ngoài mà ðịa-khí ở trong, cho nên nói rằng : “trị”. Trị là trị ở bên trong mà khiến cho dồn ra bên