Quan Tây Sơn đâu dễ để yên, hơn một năm trời lùng sục ráo riết khắp
hang cùng ngõ hẻm trên các quần đảo ngoài vùng Vịnh. Nguyễn vương lẩn
trốn hết đảo này đến đảo khác, nhiều phen phải trà trộn trong lòng dân dã
đào khoai mì củ chuối, hái rau rừng, mò tôm tép, ăn bờ ngủ bụi…phong
trần miết mà trở nên dày dạn.
Trong chuỗi ngày loạn lạc ấy, Bá-Đa-Lộc không chối bỏ trách nhiệm
của mình, cưu mang đùm bọc vợ con Ánh lẩn trốn tai mắt của Tây Sơn từ
trong đất liền ra các quần đảo ngoài vùng Vịnh. Dời chuẩn viện ra đảo Phú
Quốc gặp Ánh, thầy trò mừng mừng tủi tủi hàn huyên mọi lẽ, Lộc cho biết
tình hình Tây Sơn ở đất liền đang củng cố bố phòng nghiêm nhặt, còn
ngoài khơi thì lơi lỏng không quần đảo nữa.
Hiểu ý cha, Ánh tranh thủ thời cơ, tập hợp tàn quân Nguyễn, bàn kế
hoạch cầu viện nước ngoài trợ giúp để khôi phục lại giang sơn. Ba-Đa-Lộc
nghĩ đến nước Pháp của mình đang trên đà bành bá mộng xâm lăng trên
khắp hoàn cầu, ra sức thuyết phục Ánh cầu viện nước Pháp. Sau khi phân
tích dẫn giải, ông khẳng định: Pháp là một nước đàn anh, binh hùng tướng
mạnh, giàu lòng nhân hậu sẵn sàng trợ giúp các nước đàn em khi cần đến.
Ánh nhất trí bàn kế hoạch cụ thể, giao cha sứ làm cầu phao bắc nối liền hai
nước Pháp-Việt đề huề, chống Tây Sơn.
Kế đó, Chu Tiếp gửi mật thư, mời Nguyễn vương sang vọng Cát hội
kiến với vua Xiêm. Đang nóng vội ở trong lòng, Vương muốn thực hiện
ngay, liền bàn với đức giám mục hoãn ý định cầu viện nước Pháp lại, tức
tốc ra đi.
Nước Xiêm dưới quyền Chất Trị hưng thịnh binh lực dồi dào đang
nuôi tham vọng lấn chiếm Châm-Lạp, Gia Địnhmở rộng bờ cõi, thì Nguyễn
vương đến đúng lúc và lời cầu viện cũng khẩn cấp không thể chậm trễ.
Chất-Trị chớp lấy thời cơ tiếp đón nồng hậu và đã thõa thuận giao ước vào
một ngày hè nắng gắt, biển trời mù mịt như đang thúc giục mộng xâm lăng.