thanh gỗ nặng lên, khi thoi dừng lại họ cho những thanh gỗ rơi xuống ép sợi
lại với nhau. Vẻ đói khát hiện lên trên những khuôn mặt hốc hác, mệt mỏi.
Mấy người đàn bà gầy xơ gầy xác ngồi bên bàn may. Một cái mùi thum
thủm khó chịu tràn ngập nơi này. Không khí hôi hám nặng nề, các bức
tượng rịn ra dòng mồ hôi nhơm nhớp bẩn thỉu vì trời ẩm.
Nhà vua trẻ đến gần một người thợ dệt, đứng ngay cạnh anh ta quan sát.
Người này ngước nhìn chàng, ánh mắt giận dữ: “Tại sao ngươi đứng đấy
nhìn ta? Bộ ngươi muốn do thám ta rồi về báo cáo cho ông chủ phải
không?”
“Ai là ông chủ của các ông?”
“Ông chủ chúng tôi à?” Người thợ dệt đay lại giọng mỉa mai. “Ông ta cũng
là một người như tôi thôi. Thật thế, chỉ có một điều khác biệt duy nhất, ông
ta mặc quần áo đẹp còn tôi thì ăn mặc rách rưới và trong khi tôi ốm yếu vì
đói khát thì ông ta khỏe mạnh vì cơm no rượu say”.
“Đây là mảnh đất tự do,” ông vua trẻ nói, “và ông không phải là nô lệ của
một ai cả”.
“Trong chiến tranh,” người thợ dệt đáp, “người mạnh biến kẻ yếu thành nô
lệ, trong hòa bình người giàu biến người nghèo thành nô lệ. Chúng tôi phải
làm việc để sống và họ trả cho chúng tôi đồng lương rẻ mạt để chết đói.
Chúng tôi làm việc hùng hục cho họ ngày cũng như đêm để cho bọn chúng
chất đầy vàng vào hòm. Con cái chúng tôi tàn úa trước khi kịp lớn, gương
mặt của những người mà chúng tôi yêu trở nên khó coi và độc ác. Chúng tôi
đạp nho để làm rượu cho kẻ khác uống. Chúng tôi gieo trồng lương thực
nhưng bụng thì trống rỗng. Chúng tôi mang xiềng xích đấy, chỉ có điều mắt
người không nhìn thấy. Chúng tôi là nô lệ nhưng người ta lại gọi là những
công dân tự do”.
“Điều này xảy ra với tất cả mọi người à?” Đức vua hỏi.