Tessa nuốt khan. “Là gì?”
“Là ‘Đẹp cũng là hà khắc.’”
Cô nhìn xuống tay anh: Thon dài, móng cắt cụt và sẹo ngang dọc các
mấu tay. Liệu có Nephilim nào không có sẹo không? “Câu đó có ý nghĩa
đặc biệt gì với anh không?” Cô khẽ hỏi. “Đó là ngôn ngữ chết. Sao anh lại
học chúng?”
Anh đã nhoài gần tới độ cô cảm nhận được hơi ấm từ hơi thở anh trên má
mình. “Anh không chắc nữa,” anh nói, “dù anh nghĩ chắc do anh cảm nhận
được sự tường minh trong đó. Tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh, tiếng Phạn,
chúng chứa đựng chân lý, còn ngôn ngữ chúng ta sau này lại đầy những từ
vô nghĩa.”
“Thế còn ngôn ngữ của anh,” cô dịu dàng nói. “Tiếng mẹ đẻ của anh
ấy?”
Môi anh cong lên. “Anh nói được cả hai ngôn ngữ, tiếng Anh và tiếng
Trung Quan Thoại,” anh nói. “Bố anh nói tiếng Anh, còn nói tiếng Trung
thì dở ẹc. Sau khi gia đình anh chuyển tới Thượng Hải, tiếng Trung của nhà
anh lại còn dở hơn. Người nói tiếng Quan Thoại chẳng mấy hiểu được
phương ngữ ở đó đâu.”
“Thế anh nói gì bằng tiếng Quan Thoại đi,” Tessa cười đề nghị.
Jem nói liến thoắng gì đó, nghe có vẻ có rất nhiều nguyên âm bật hơi và
phụ âm nối vào nhau, giọng lên bổng xuống trầm. “Ni hen piao liang.”
“Anh vừa nói gì thế?”
“Anh nói tóc em bị tuột ra kìa. Chỗ đó đó,” anh nói và đưa tay vén một
lọn tóc xoăn bị xổ ra ra sau tai cô. Hai má Tessa nóng bừng, và cô mừng vì
trong xe tối. “Em nên cẩn thận,” anh nói và từ từ rụt tay lại, những ngón tay
nấn ná một thoáng nơi má cô. “Đừng để kẻ thù tóm được gì đó.”
“À... vâng... tất nhiên.” Tessa vội nhìn ra ngoài cửa sổ – và trố cả mắt.
Tuy màn sương vàng vọt phủ dày trên phố sá, nhưng cô vẫn thấy rất rõ. Họ
đang khua bánh trên một đại lộ hẹp – có lẽ vẫn được tính là rộng theo chuẩn
Luân Đôn. Không khí oi nồng, nhớp nháp vì bụi than cùng sương mù, và
trên phố thấp thoáng những bóng người. Những con người bẩn thỉu, rách