rưới ấy ngồi sụp bên những bức tường của các căn nhà xiêu vẹo, mắt dõi
theo chiếc xe ngựa đi qua như đàn chó đói chăm chăm nhìn khúc xương.
Tessa thấy một người đàn bà quấn khăn choàng, một tay đeo cái làn hoa, có
một đứa bé quấn trong góc khăn choàng áp mặt vào vai bà ta. Mắt nó nhắm,
còn da thì bệch bạc như màu sữa đông; trông nó như bị ốm, hoặc đã chết.
Đám trẻ đi chân trần, bẩn thỉu như lũ mèo hoang, chơi cùng nhau trên
đường phố; đám phụ nữ ngồi dựa vào nhau ở các hiên nhà, rõ ràng đã say
xỉn. Trông đám nam giới là tệ hơn cả: họ ngồi sụp bên các chái nhà, áo gi-lê
và mũ bẩn thỉu, vá chằng vá đụp, và vẻ tuyệt vọng trên gương mặt họ trông
như hình khắc trên bia mộ.
“Giới thượng lưu của Luân Đôn sống ở Mayfair và Chelsea thích đi du
ngoạn lúc nửa đêm qua những vùng như thế này,” Jem nói bằng giọng
nhuốm màu cay đắng. “Họ gọi đó là vi hành xóm liều.”
“Họ có dừng lại và... và giúp gì không?”
“Hầu như là không. Họ chỉ muốn tới xem rồi về nhà và kể lại chuyến
phiêu du vào bữa tiệc trà tiếp theo, rằng họ đã thấy ‘quân lường gạt’ và ‘lũ
đĩ điếm’ hay ‘Shivering Jemmy’
(*)
thật sự. Hầu hết bọn họ đều không hề
bước xuống xe ngựa.”
(*) Nguyên văn: mug-hunter, dollymop, Shivering Jimmy. Đây là những
từ lóng của người Anh thời Victoria.
“Shivering Jemmy là gì?”
Jem nhìn cô bằng đôi mắt bạc. “Kẻ ăn mày rách rưới đang chịu đói chịu
rét,” anh nói. “Một kẻ có thể sẽ chết cóng.”
Tessa nghĩ tới những tờ giấy bìa bịt các kẽ hở cửa sổ căn hộ của cô tại
New York. Nhưng chí ít cô cũng có phòng ngủ, có chỗ để ngả lưng, và có dì
Harriet nấu cho cô một bát xúp nóng hay pha một tách trà ấm. Cô thật may
mắn.
Xe ngựa dừng tại một góc đường trông không lấy gì làm thân thiện. Bên
kia đường, ánh sáng từ một quán rượu ùa ra đường, chiếu tỏ dòng khách say
quắc cần câu đều đặn đi ra, một vài gã còn trái ôm phải ấp mấy cô ả váy áo
thì lòe loẹt ố bẩn còn má thì đánh phấn hồng rực như tuồng chèo. Ở đâu đó
có người đang ông ổng ca bài Lizzie Vickers độc ác.