xỉn, với những đám mây đen lơ lửng trên cao. Tessa chăm chú ngắm cảnh
vật tới quên cả mọi thứ xung quanh.
“Em chưa từng thấy vùng nông thôn nào à?” Jem hỏi, nhưng không
giống Will, câu hỏi của anh hoàn toàn xuất phát từ lòng hiếu kỳ.
Tessa lắc đầu. “Hình như em chưa từng rời New York lần nào trừ dịp tới
đảo Coney, mà đó cũng chẳng hẳn là vùng nông thôn. Em nghĩ chắc hồi ở
cùng Chị Em Hắc Ám, em đã sống tại vùng quê Southampton, nhưng nhà
đó lúc nào cũng tối om om, cửa đóng then cài và kéo rèm im ỉm.” Cô bỏ cái
mũ ướt rượt xuống và đặt lên cái bàn ở giữa ba người cho khô. “Nhưng em
có cảm giác từng được thấy rồi. Trong sách ấy. Em luôn tưởng tượng sẽ
thấy biệt trang Thornfield
(*)
thấp thoáng rặng cây, hay đồi Gió Hú cheo leo
nơi lưng trời…”
(*) Địa danh trong tiểu thuyết Janes Eyre của nữ văn sĩ Charlotte
Bronte.
“Đồi Gió Hú ở Yorkshire,” Will nói vọng từ dưới cái mũ, “và còn lâu
lắm chúng ta mới tới được Yorkshire. Chúng ta còn chưa đến Grantham cơ.
Và Yorkshire chẳng có gì hay ho hết. Toàn đồi thấp lè tè với thung lũng,
không có lấy một ngọn núi đúng nghĩa như ở Wales quê anh…”
“Anh có nhớ Wales không?” Tessa hỏi. Cô không chắc sao mình hỏi nữa;
cô biết hỏi Will chuyện quá khứ như trêu chọc một con chó bị đau ở đuôi,
nhưng cô không ngăn mình được.
Will khẽ nhún vai. “Nhớ cái gì nào? Lũ cừu và mấy bài đồng dao hả?”
anh nói. “Và còn phương ngữ kỳ cục nữa chứ. Fe hoffwn i fod morfeddw,
fyddai ddim yn cofio fy enw.”
“Nghĩa là sao?”
“Là ‘Ta muốn say quắc cần câu để khỏi phải nhớ tên mình.’ Khá hữu
dụng đấy.”
“Có vẻ anh không yêu quê hương mình,” Tessa nhận xét. “Thế anh còn
nhớ vùng núi non chập chùng ấy làm gì?”
“Yêu quê hương?” Will có vẻ bảnh chọe. “Anh sẽ cho em biết thế nào là
yêu quê hương,” anh nói. “Để vinh danh nơi chôn rau cắt rốn, anh có xăm