Không có tiếng trả lời; chị lại gõ nữa. Vẫn im lặng như tờ Betty xách
bình nước nóng bèn mở cửa, bước vào trong phòng. Chiếc giường nhỏ có
nệm bông trắng muốt vẫn phẳng lì và sạch y như tối hôm trước, lúc chính
tay Betty trải giường lại. Ở một đầu gian phòng, có hai chiếc vali nhỏ
chằng dây cẩn thận; trên chiếc bàn cạnh cửa sổ có một lá thư đặt trên mặt
một tấm gối, chiếc gối to, phồng, có kẻ chỉ hồng, mặt gối đan chéo giống
chiếc mũ ngủ của một bà già. Có lẽ lá thư được đặt trên đó suốt đêm rồi.
Betty rón rén đi lại, như sợ hãi không dám đánh thức lá thư đang ngủ…
Chị ta nhìn lá thư, lại nhìn quanh phòng, có vẻ rất ngạc nhiên mà cũng rất
thỏa mãn. Chị cầm lá thư lên vừa mân mê lật đi lật lại, vừa nhoẻn miệng
cười mãi; cuối cùng chị ta đem lá thư xuống nhà dưới đưa cho bà Briggs.
Vì sao Betty lại biết thư ấy gởi cho bà Briggs, tôi cũng chẳng rõ; vì chị
Betty chỉ được theo những lớp học ngày chủ nhật do bà Bute Crawley dạy
nên chị ta vẫn mù tịt không đọc được chữ y như đó là chữ Do-thái vậy. Chị
hầu gái kêu ầm lên:
- Này, bà Briggs ơi; bà ơi, lại có chuyện rắc rối đây. Trong buồng cô
Sharp vắng tanh. Giường vẫn nguyên chưa có ai nằm, mà cô ấy đi đâu mất
để lại lá thư gửi cho bà đây này.
Bà Briggs đánh rơi chiếc lược xuống đất, mớ tóc thưa thớt mỏng dính đã
bạc xõa xuống vai bà kêu lên:
- Thế nào? Trốn đi theo giai à? Cô Sharp bỏ trốn đi? Có lẽ nào thế được?
Bà lật đật bóc thư và như người ta vẫn nói, “đọc ngấu nghiến” lá thư đề
gửi cho bà.
Bà Briggs thân mến (lời người đi trốn); bà là người có tấm lòng rộng
lượng nhất đời, bà sẽ thương xót, thông cảm và tha lỗi cho tôi. Tôi rời bỏ
nơi đây, nơi kẻ mồ côi đáng thương này được mọi người đối đãi rất dịu
dàng trìu mến, mà không sao cầm được nước mắt; và tôi cầu kinh, xin chúa
ban ơn cho những người ở lại. Tôi phải tuân theo những quyền lực cao cả
hơn cả quyền lực của người ân nhân che chở cho tôi. Tôi phải trở về với
bổn phận… trở về với chồng tôi. Vâng, tôi đã có chồng. Chồng tôi ra lệnh