sức quật cho nó ngã như nhái. Thằng Jim kể chuyện rằng ở Oxford, chúng
nó gọi thằng Pitt là cô Pitt Crawley…
Ngừng lại một lúc, ông ta lại bảo:
- Bacbara, tôi bảo này…
- Cái gì?
Bà vợ đang vừa cắn móng tay, vừa gõ nhịp lên mặt bàn.
- Hay là ta cho thằng Jim đến Brighton với bà lão xem có làm ăn được gì
không. Nó sắp thi đỗ rồi; bà cũng biết đấy nó chỉ mới được học đại học,
được ở Oxford có nhiều cái lợi lắm. Nó vẫn cầm lái trong những cuộc đua
thuyền đấy; mặt mũi nom sáng sủa. Chết cha thật? Bà nó này, cứ gửi nó về
với bà lão, hả? Dặn nó nếu thằng Pitt lếu láo thì cứ nện cho một trận, Ha!
ha? ha?
Bà vợ thở phào đáp:
- Jim đến thăm bà ấy kể cũng được; giá ta đưa được một đứa con gái vào
thì tốt hơn; nhưng bà ấy không chịu đâu, chúng nó chả đứa nào nom ra hồn
người!
Hai cô thiếu nữ bất hạnh được ăn học cẩn thận này đang ở trong phòng
khách ngay sát cạnh. Các cô đang nện những ngón tay cứng nhắc xuống
những phím đàn dương cầm rầm rầm; suốt ngày họ phải chơi âm nhạc, đeo
biển gỗ sau lưng, nếu không phải học địa lý, học lịch sử… Nhưng trong
Hội chợ phù hoa, những khả năng ấy nào có giúp ích gì được cho cái cô
thiếu nữ khổ người ngắn cũn cỡn, mặt xấu, da thô? bà Bute chỉ hy vọng cậu
thầy lễ sẽ cưới một cô làm vợ. Giữa lúc ấy Jim từ chuồng ngựa bước vào,
trên chiếc mũ bằng da dầu có gài một cái tẩu ngắn; hai bố con trao đổi với
nhau về giải ngựa thi ở St. Leger, câu chuyện của hai vợ chồng ngừng lại ở
đấy.
Bà Bute không hy vọng gì lắm về việc phái anh con trai là James làm sứ
giả, cho nên lúc tiễn con đi mặt bà nom cứ ỉu xìu xìu. Bản thân anh chàng
cũng chẳng phấn khởi lắm. Anh ta chỉ hy vọng may ra bà cô sẽ thí cho một
món tiền nào đó đủ để trả ngay mấy món cần tiêu cấp bách đầu niên học