tôi đang theo đuổi, tôi bắt đầu thấy tiếc nhớ những lúc không phải làm việc,
và có cảm giác cô độc chết người khi một ngày trong đời trôi qua hoang
phí. Tôi quá chán Scott cùng trò hề kệch cỡm của anh, nhưng tôi đã tìm
được người phục vụ và đưa tiền cho anh ta đi mua nhiệt kế và một ống
aspirin, rồi tôi gọi hai li citron-pressé (nước chanh ép) hai whisky đúp. Tôi
muốn gọi cả chai nhưng ở đây họ chỉ bán từng li.
Khi tôi trở lại phòng, Scott vẫn nằm ở tư thế trong mồ, như một bức
tượng tác, mắt nhắm hờ và hơi thở nhẹ thanh cao diệu vợi.
Nghe thấy tiếng tôi bước vào, anh cất tiếng “Có tìm được nhiệt kế
không?”
Tôi đến bên và đặt tay lên trán anh. Nó không lạnh ngắt như bia mộ, mà
mát và không ra mồ hôi.
“Không,” tôi nói.
“Tôi cứ nghĩ anh đem nhiệt kế về.”
“Tôi nhờ người đi mua rồi.”
“Thế thì nói làm gì.”
“Không ư? Thế không thế thì là gì?”
Ta không thể giận dữ với Scott, cũng như với một ai đó bị điên, nhưng
lúc này tôi tức giận với chính mình vì để lâm vào mớ lố bịch này. Tuy
nhiên, anh có lí do để làm như vậy, và tôi rất hiểu. Hầu hết các bợm rượu
thời đó đều chết vì bệnh viêm phổi, căn bệnh ngày nay gần như đã bị tiêu
diệt. Nhưng anh còn khuya mới đạt chuẩn công nhận là một tay rượu, vì chỉ
vài ngụm bé tí cũng đủ khiến anh lắc lư rồi.
Thời ấy ở châu Âu, chúng tôi nghĩ về rượu như một loại thực phẩm bình
thường có lợi cho sức khỏe, giúp ta phấn chấn sảng khoái vui vẻ. Uống
rượu không phải để tỏ ra là đẳng cấp hay dấu hiệu của sự tinh tế hay vì
nghiện ngập; mà đơn giản chỉ như chuyện ăn uống, là một nhu cầu, và tôi