mươi thân nhưng rồi gục xuống ở bước nhảy cuối cùng chôn vùi theo toàn
bộ số tiền chung tôi dành dụm đủ sống trong sáu tháng. Chúng tôi cố không
bao giờ nghĩ đến chuyện đó nữa. Trong cái năm ấy, đời chúng tôi vẫn tươi
rói cho đến khi xảy ra chuyện với Chèvre d’Or.
“Chúng mình có đủ tiền đặt cược cho tử tế không Tatie?” Vợ tôi hỏi.
“Không. Ta sẽ chỉ đánh tiếp số tiền thắng cược thôi. Em có cần tiêu gì
khác không?”
“Ừ, thì…” nàng đáp.
“Anh biết, mọi chuyện khó khăn nên anh trở nên keo kiệt và bần tiện
chuyện tiền bạc.”
“Không phải thế,” nàng nói. “Nhưng mà…”
Tôi biết mình đã quá nghiệt ngã và mọi chuyện tồi tệ như thế nào. Một
người chăm chỉ làm việc và hài lòng với công việc mình làm không lý nào
lại để cho sự nghèo túng ảnh hưởng mình đến vậy. Tôi nghĩ đến những bồn
tắm, vòi sen hay nhà vệ sinh có nút xả nước mà những người kém cỏi hơn
chúng tôi còn có, những thứ ta chỉ được dùng khi đi du lịch, như chúng tôi
vẫn thường đi. Thay vào đó, với chúng tôi ở cuối đường phía gần sông luôn
có sẵn một nhà tắm công cộng. Vợ tôi khóc thương con Chèvre d’Or khi nó
ngã quỵ hơn là phàn nàn những chuyện này. Tôi nhớ nàng khóc vì thương
con ngựa chứ không phải khóc vì số tiền đã mất. Tôi chẳng hiểu gì khi nàng
cần một chiếc áo khoác lông cừu xám và đã rất thích nó khi nàng mua được.
Tôi cũng mù tịt trong những chuyện khác nữa. Đó là một phần trong cuộc
chiến chống lại sự nghèo đói mà ta không bao giờ thắng một khi vẫn còn
tiêu xài. Nhất là khi đem tiền đi mua tranh thay vì mua quần áo để mặc.
Những lúc ấy chúng tôi không bao giờ xem mình như những người nghèo.
Chúng tôi không chấp nhận điều đó. Chúng tôi vẫn nghĩ mình thuộc đẳng
cấp khác và cái bọn người chúng tôi khinh bỉ và không tin được kia chẳng
qua chỉ là những kẻ có tiền. Và việc tôi có mặc độn áo bông bên trong thay
vì áo lót để ấm người chẳng có gì lạ. Có chăng chỉ lạ với bọn nhà giàu kia.