Tôi mừng vì ông đã ngồi ở Lilas vào đầu buổi chiều trước khi các khách
quen kịp đến.
Buổi chiều hôm đó tôi ngồi ở bàn đặt bên ngoài Lilas, ngắm ánh sáng
đổi màu trên những tán cây, trên những tòa nhà và những con ngựa cao lớn
chậm rãi đi qua trên các đại lộ ngoại vi. Từ phía sau, bên tay phải, cửa quán
mở ra và một người đàn ông bước đến bên bàn.
“Ồ, anh ở đây à?” ông nói.
Đấy là Ford Madox Ford, lúc ấy ông gọi mình như thế. Hơi thở ông chật
vật luồn qua bộ ria dày nặng bẩn bẩn và ông giữ thẳng người như một cái
thùng rượu dựng đứng di động phủ bộ áo quần bảnh bao.
“Tôi ngồi được không?” Ông hỏi, ngồi xuống, dưới cặp lông mi lông
mày không màu đôi mắt xanh phơn phớt nhìn ra đường lộ.
“Tôi đã dành những năm tháng đẹp đẽ nhất của đời tôi đấu tranh cho
bọn ngựa kia được giết chết một cách nhân bản,” ông nói.
“Chuyện ấy ông kể rồi,” tôi nói.
“Chưa đâu.”
“Chắc chắn là rồi.”
“Lạ nhỉ. Trong đời tôi chưa từng kể chuyện này cho ai nghe cả.”
“Anh uống gì?”
Người phục vụ đứng đó và Ford gọi một li Chambéry Cassis. Anh phục
vụ cao gầy, đỉnh đầu hói có nhúm tóc bóng mượt vắt ngang và ria mép rậm
xoăn ngược kiểu cổ, nhắc lại thức uống vừa gọi.
“Không. Cho một li fine à l’eau (một công thức uống cognac phổ biến
trước Thế chiến thứ hai),” Ford nói.
“Một fine à l’eau cho ông đây,” người phục vụ xác nhận lại lần nữa.