đăng và được đánh giá hay nhất vào cuối bốn kì đầu tiên.
Khó mà nói được cái tin ấy là loại tin đồn tán hươu tán vượn hay chỉ là
chuyện có ai đấy tin thế thật. Mọi người đều có thể hi vọng và tin, dù thế
nào đi nữa thì giải thưởng luôn là một niềm vinh hạnh. Và đương nhiên,
chẳng có gì để nói hay phản đối vai trò đồng tổng biên tập của Walsh cả.
Không bao lâu sau khi nghe được tin đồn về giải thưởng chưa được
chứng thực này, một hôm tôi được Walsh mời đi ăn trưa tại quán ăn ngon
nhất, đắt nhất của khu đại lộ St-Michel, và sau món hàu, loại marenne dẹt
phảng phất mùi đồng đắt tiền chứ không phải loại portugaise rẻ mạt quen
thuộc, cùng một chai Pouilly-Fuissé, ông bắt đầu dẫn dắt câu chuyện một
cách ý nhị. Có vẻ như ông buông lời ngon ngọt với tôi như ông từng làm
mờ mắt các em cò mồi trên tàu – tất nhiên là nếu các em ấy là cò mồi thật
và ông cũng làm hoa mắt các em ấy thật – và khi ông hỏi tôi có muốn dùng
thêm mươi con hàu dẹt nữa không, như ông vẫn gọi thế, tôi bảo tôi cực
thích. Ông không thấy phiền gì khi trình ra trước tôi vẻ mặt đã được tử
thần điểm chọn và đấy là một sự dễ chịu. Ông biết là tôi biết ông đang
diễn trò, không phải để lợi cho ông mà là rồi ông sẽ chết vì cái trò ấy và
như thế thì quả thật tệ, rồi ông không ngại ngần gì khi ho, nhưng tôi ngồi ở
bàn cũng không lấy làm khó chịu. Tôi tự nhủ không biết ông ăn hàu có
giống như cách ăn của các cô gái điếm ở Kansas City, những người bị tử
thần và những thứ khác thật sự điểm mặt, tức hau háu nuốt trọn tinh dịch
như thể đấy là thứ thuốc hiệu nghiệm để khỏa lấp sự bịp bợm; nhưng tôi
không hỏi. Tôi bắt đầu ăn tiếp đợt hàu thứ hai, nhón chúng ra từ cái đĩa bạc
chứa đầy đá bào, nhỏ chanh vào và ngạc nhiên thấy cái mép mỏng mảnh
nâu nâu của hàu co rúm, rồi tôi tách những cơ thịt đang bám vào vỏ cho vào
miệng và chậm rãi nhấm nháp.
“Ezra là một nhà thơ vĩ, vĩ đại,” Walsh nói, nhìn tôi bằng đôi mắt thi sĩ
sẫm màu.
“Vâng,” tôi đáp. “Và là một người tốt.”