Tôi sẽ luôn nhớ ngày đầu tiên Paul Scholes đến câu lạc bộ. Cậu đi cùng một
cậu bé khác tên là Paul O’Keefe. Cha của cậu, ông Eamonn, từng chơi cho
Everton. Brian Kidd nói muốn tôi nhìn qua hai cậu trẻ anh mang đến, cả hai đều
13 tuổi. “Hai đứa nhỏ đó đâu rồi?” tôi hỏi Brian. Chúng đứng sau lưng anh ấy,
nhỏ đến nỗi bị Brian che hoàn toàn.
Khi đó, chúng chỉ cao khoảng hơn 1,4m. Tôi nhìn cặp đôi nhỏ thó đó và
thầm nghĩ: “Làm thế nào hai đứa này trở thành cầu thủ bóng đá được cơ chứ?”
Sau này chuyện đó trở thành đề tài trêu chọc ở câu lạc bộ. Khi Scholes được vào
đội trẻ, tôi đã nói tại phòng của các huấn luyện viên, “Cậu Scholes đó không có
cơ hội, nó nhỏ con quá.” Khi đến tuổi 16, cậu ta vẫn bé tí như thế. Nhưng rồi cậu
thực sự cao vọt lên, và năm 18 tuổi, cậu ta đã cao thêm khoảng 9-10cm nữa.
Paul ít khi mở miệng. Cậu cực kỳ nhút nhát. Cha cậu từng là một cầu thủ
giỏi và cả hai cha con đều có biệt danh là Archie. Ban đầu, khi còn có những suy
nghĩ ngờ vực về vóc dáng của Paul, tôi chưa bao giờ xem cậu ta thi đấu, tuy từng
quan sát cậu ta tập luyện. Tại học viện, chúng tôi chủ yếu dạy các kỹ thuật đá
bóng. Khi tiến bộ và được lên thi đấu cho đội trẻ A, Scholes chơi ở vị trí trung
phong. Tôi vẫn nói, “Cậu này không đủ tốc độ và sức mạnh để đá trung phong.”
Vậy là họ xếp cậu ấy chơi ngay sau hàng tiền đạo. Trong trận đấu tại The Cliff,
một trong những trận đấu đầu tiên của cậu, Scholes tung một cú vô lê từ ngoài
vòng cấm địa. Tôi như muốn nghẹt thở vì sức mạnh của cú sút đó.
“Cậu ấy đá tốt, nhưng tôi vẫn nghĩ không có bất kỳ cơ hội nào để cậu giữ vị
trí đó. Cậu ta bé tẹo,” Jim Ryan nói thế, khi xem cậu thi đấu cùng với tôi. Và cụm
từ này được đưa vào “từ điển” của câu lạc bộ. Scholes có nghĩa là: bé tẹo.
Khi gắn bó với chúng tôi lâu hơn, Paul Scholes gặp vấn đề vì bệnh hen
suyễn. Cậu không góp mặt trong đội vào năm đoạt cúp FA dành cho đội trẻ của
các câu lạc bộ. Beckham chỉ gia nhập đội ở những vòng sau, hồi đó cậu ta hãy
còn cao lênh khênh và hơi yếu đuối. Simon Davies, chơi cho xứ Wales, là đội
trưởng. Robbie Savage cũng có tên trong đội. Lứa cầu thủ đó sau này đa phần
đều được gọi vào các đội tuyển quốc gia. Một cầu thủ khác nữa, Ben Thornley, lẽ
ra cũng đã lên tuyển nhưng không thể do chấn thương gối nghiêm trọng.
Khi là một tiền đạo trẻ, dù gặp khó khăn, Scholes luôn đảm bảo ghi ít nhất
15 bàn trong một mùa giải. Sau này, khi chuyển sang đá tiền vệ trung tâm, cậu ta
chơi bóng bằng cái đầu và có tài cầm chịch. Đó là khả năng tự nhiên của Paul.
Tôi rất thích xem các đối thủ cố gắng kèm chặt để vô hiệu hóa Scholes trong suốt
trận đấu. Cậu ta sẽ đưa họ vào những vị trí không mong muốn và chỉ cần một
chạm là kiếm được quả phạt góc; hoặc làm động tác giả lừa bóng ra xa và rồi bất