- Này chị, có lắm bạn tỏ ý phàn nàn chị: chị đã từng sống một thời gian dài bên kháng chiến, biết
bao điều nghe thấy trong khói lửa mà chưa thấy chị nói đến các sáng tác của chị.
Mặt chị thoáng vẻ buồn.
- Nãy giờ làm chị mệt, xin ngâm chị nghe bài thơ này để gọi là cám ơn chị vậy:
Má bây chừ trốn đói
Bồng bế dắt bây đi
Cha bây chừ ở lại
Học người hái rau vi
Thú Dương nào ở nơi ni
Rau vi sánh với củ mì thua xa
No lòng vỗ bụng ngâm nga
Rằng Trời Đất đã sanh ta làm gì
Ngang tàng một đấng nam nhi
Phải chăng ngồi xực củ mì làm no?
Mắt chị chớp chớp:
- Anh móc đâu được bài thơ của nhà tôi đó?
- Giữa năm 1952, nghe tin chị và các cháu được phép lìa xứ Quảng để hồi cư về Sài Gòn, nhà tôi
giao tôi một món quà để biếu các cháu trước khi lên đường. Từ Đồng Cát, tôi lội bộ ra tỉnh để lên Mỹ
Thịnh, nhưng đến chân núi Bút gặp anh trong một cái quán bên đường, mới hay chị và các cháu vừa đi.
Tôi gởi lại món quà cho anh. Anh bèn đọc cho tôi chép bài thơ trên.
Chị mơ màng. Chẳng biết chị cũng đang như tôi nhớ lại cái gò đất cằn cỗi, con đường đất song
song với hữu ngạn sông Trà, một gian nhà tranh bên đường ấy, trên gò kia, một lớp học sơ sài, một
đám khoai mì òi ọp, hay con đường hồi cư vất vả từ Quảng Ngãi đến Hội An mươi năm về trước.
- Biết bao giờ mới được đọc trong tiểu thuyết chị cảnh người và việc của cái nơi, cái thời “ngồi
xực củ mì làm no”?