tiến sĩ ở các trường đại học Mỹ, song họ đã chuyển sang dạy
bằng tiếng Hoa nên trình độ nói tiếng Anh không còn lưu loát
nữa.
Tình trạng này trở nên tồi tệ đến nỗi vào năm 1978, các nghị
sĩ của chúng tôi (vốn là những người tốt nghiệp Nantah trước
đây) đã yêu cầu tôi can thiệp trước khi đại học này tan rã. Người
được tôi xem trọng chính kiến là Quốc vụ khanh Ch’ng Jit Koon.
Ông ta giỏi về giao tiếp và đã làm việc bên cạnh tôi nhiều năm,
cả việc giúp tôi trông nom khu vực bầu cử. Ông ta thuyết phục
tôi rằng việc cho phép Nantah tiếp tục tồn tại sẽ tạo ra một rắc
rối lớn hơn. Với sự thất bại về nghề nghiệp của hàng loạt sinh
viên tốt nghiệp trường này, những người nói tiếng Hoa sẽ đổ lỗi
cho chính phủ đã không quan tâm cứu vớt họ mà còn để cho
Nantah sụp đổ nữa. Ho Kah Leong, Chin Harn Tong, Lee Yiok
Seng – tất cả đều là thư ký nghị viện và những người tốt nghiệp
Nantah – đều ủng hộ mạnh mẽ quan điểm của Ch’ng.
Hầu hết các đồng sự trong nội các của tôi đều chống lại can
thiệp này. Chin Chye và Eddie Barker phản đối can thiệp này bởi
vì về mặt chính trị điều này quá tai hại. Ngay cả Keng Swee là
người có quan điểm cứng rắn và thiết thực, Kim San là người
thực dụng đều không nhiệt tình lắm. Họ sẽ sát cánh cùng tôi
nếu tôi chọn giải pháp can thiệp, nhưng tại sao phải gây ra một
sự công kích chứ? Họ nhớ lại những rắc rối mà chúng tôi đã gặp
phải với các trường học tiếng Hoa và Nantah trong những năm
60. Tôi sửng sốt khi Ong Pang Boon, một người học tiếng Hoa ở
trường Trung học Confucian, Kuala Lumpur cũng tỏ ra nghi
ngờ. Ông ta tán thành với các nghị sĩ từng tốt nghiệp ở Nantah
của chúng tôi về tính nghiêm trọng của tình trạng này, nhưng
lại âu lo vì phản ứng dữ dội về mặt chính trị của những người
đóng góp và ủng hộ Nantah ở Singapore và Malaysia. Tuy nhiên,