nguyên vật liệu và nhân sự giữa Singapore và Batam, và có thể
khuyến khích nhưng không thể ra lệnh các nhà thầu đầu tư.
Tôi cố thuyết phục Suharto cho phép các công trình đầu tư
100% vốn nước ngoài ở Batam nếu các sản phẩm của họ hoàn
toàn dành cho xuất khẩu. Khi chúng tôi gặp nhau vào tháng
10/1989, Suharto nói ông ta sẽ cho phép các hãng sản xuất
hoàn toàn để xuất khẩu được có 100% vốn nước ngoài trong 5
năm đầu nhưng sau đó họ sẽ phải chuyển giao một phần vốn
cho người Indonesia. Như vậy là không hấp dẫn bằng chính
sách của Singapore nhưng cũng đủ để lôi kéo một số nhà máy ở
Singapore chuyển sang Batam vì họ cảm thấy đang phải chịu
sức ép của chi phí cao hơn tại nước này. Một trong những công
ty liên doanh với chính phủ của chúng tôi là Tổng công ty Công
nghiệp – Kỹ nghệ Singapore đã thành lập một liên doanh với
một tập đoàn Indonesia để phát triển một khu công nghiệp tập
trung ở Batam, rộng 500 hecta và tích cực vận động các công ty
đa quốc gia cũng như các nhà công nghiệp của chúng tôi đầu tư.
Kết quả rất thành công. Tính đên tháng 11/1999, khu công
nghiệp này đã có được những dự án đầu tư với tổng giá trị 1,5 tỷ
USD, tạo việc làm cho hơn 74.000 người Indonesia. Liên doanh
này vẫn tiếp tục phát triển mặc dù Indonesia đã lâm vào một
cuộc khủng hoảng tài chính trong năm 1997.
Điều này đã dẫn tới sự hợp tác trên các đảo lân cận như đảo
Bintan và đảo Karimun. Sau đó Suharto đề nghị chúng tôi nối
luồng cho 7 triệu du khách hàng năm vào tham quan Singapore
sang thăm Indonesia. Hợp tác du lịch mở rộng khắp nước
Indonesia, với hãng hàng không của chúng tôi được quyền bay
tới các điểm du lịch mà chúng tôi cùng hợp tác phát triển.
Cũng như phần lớn mọi việc khác, ở đây cũng có mặt tiêu cực
của nó. Nhiều đối tác Indonesia của chúng tôi là người Hoa nên