cơn khủng hoảng thị trường điển hình khi những nhà đầu tư
cuống cuồng rút tiền của họ ra.
Tháng 1/1997, Hanbo, một tập đoàn công ty Hàn Quốc bị
phá sản trong một vụ tai tiếng tham nhũng liên quan đến con
trai ngài tổng thống Kim Young Sam. Nhiều ngân hàng và tập
đoàn khác cũng rơi vào tình trạng rắc rối tương tự và giá trị
đồng won của Hàn Quốc bị suy giảm. Ngân hàng trung ương
Hàn Quốc đã bảo vệ đồng tiền của họ cho đến khi cạn kiệt quỹ
dự trữ vào tháng 11 và phải tìm kiếm sự giúp đỡ của IMF. Trong
vài tuần kế tiếp, toàn bộ Đông Á, gồm Hong Kong, Singapore và
Đài Loan đều bị cuốn vào cơn lốc tài chính.
Tiền Hong Kong đã được cố định theo đôla Mỹ từ năm 1983.
Do xảy ra cuộc khủng hoảng, Hong Kong phải tăng lãi suất đồng
bản tệ cao hơn so với đồng đôla Mỹ như một khoản phí rủi ro để
khuyến khích mọi người giữ lại đôla Hong Kong. Lãi suất cao
ảnh hưởng xấu đến thị trường chứng khoán và bất động sản.
Hong Kong mất tính cạnh tranh do các đồng tiền rẻ hơn của các
nước láng giềng gây tổn thất cho ngành công nghiệp du lịch
khiến cho những khách sạn vắng khách. Hong Kong đã đúng
khi cố gắng giữ tỷ giá trong suốt cơn khủng hoảng để duy trì
niềm tin trong khu vực vào thời điểm ngay sau khi nó được trả
về với Trung Quốc, nhưng vấn đề trở nên nghiêm trọng khi cuộc
khủng hoảng kéo dài.
Những khác biệt trong cuộc khủng hoảng kinh tế ở Đông Á
so với châu Mỹ Latinh đã nhấn mạnh một sự khác nhau cơ bản
về các giá trị văn hóa và xã hội. Không giống với châu Mỹ
Latinh, các chính phủ Đông Á đã không lạm chi ngân sách.
Không phải tất cả đều xuôi theo các dự án hoang phí hay chuyển
khoản tiền vay mượn ra nước ngoài để đưa vào các thị trường
chứng khoán ở New York hay London. Các chính phủ này đều có