với những thay đổi trong chính sách về di dân và định hướng
kinh tế.
Định mệnh của nước Úc có ràng buộc với định mệnh của
châu Á hay không đột nhiên trở nên nổi cộm với cuộc khủng
hoảng ở Đông Timor. Cuộc khủng hoảng được châm ngòi vào
ngày 27/1/1999 khi Ngoại trưởng Indonesia, Ali Alatas sau
cuộc họp nội các do Tổng thống Habibie làm chủ tọa đưa ra một
tuyên bố đầy kịch tính rằng: sẽ có một “cuộc thăm dò dư luận”
dành cho quần chúng ở Đông Timor để quyết định họ chấp
nhận việc tự trị đặc biệt hay trở thành độc lập. Phát ngôn công
khai này đã làm thay đổi số phận của Đông Timor, gây hậu quả
lâu dài cho Indonesia và Úc. Cả Ngoại trưởng Úc Alexander
Downer và Thủ tướng John Howard đều được biết là có mối
quan hệ cởi mở với Tổng thống Habibie. Không như Suharto,
Habibie nói tiếng Anh và sẵn sàng tiếp nhận sự thuyết phục, đặc
biệt là về Đông Timor.
Các nhà lãnh đạo của nước Úc muốn rũ bỏ cái gai Đông
Timor vốn làm hỏng mối quan hệ Indonesia – Úc. Họ đề nghị
“giải pháp Tân Caledonia” với Habibie (ở giải pháp Caledonia,
người Pháp đã đưa ra một cuộc trưng cầu dân ý năm 1998 về
việc tiếp tục gắn bó liên kết với Pháp hay độc lập sau thời gian
15 năm chuẩn bị). Tổng thống kể lại cho Mah Bow Tan (xem
chương 16) về việc Đại sứ Úc, John McCarthy, đã thảo luận với
ông ra sao về giải pháp Tân Caledonia. Habibie nói với McCarthy
rằng ông sẽ không đồng ý để Đông Timor có 15 năm chuyển
tiếp để đi đến độc lập, với sự trợ giúp kinh tế của Indonesia
trong suốt thời gian này. Nếu họ từ chối quyền tự trị, họ sẽ phải
tự lo chuyện độc lập. Indonesia sẽ không đóng vai “ông chú giàu
có”. Habibie nói Howard sau đó đã gởi cho ông một lá thư chứa
đựng các ý tưởng của Habibie và thế là ông ta viết nguệch ngoạc