người xã hội chủ nghĩa dân chủ chúng ta phải đòi cho người Nam
Việt Nam có quyền không bị ép buộc thông qua sức mạnh vũ trang,
khủng bố có tổ chức và cuối cùng bị chủ nghĩa cộng sản áp đảo. Vì
vậy chúng ta phải tìm một công thức mà trước tiên tạo được khả
năng cho người Nam Việt Nam phục hồi quyền tự do lựa chọn, mặc
dù vào lúc này quyền đó bị giới hạn trong phạm vi giữa một bên là
sự xâm chiếm của cộng sản và một bên là những hoạt động quân sự
không ngừng của Mỹ”.
Trong nhiều bài phát biểu tôi đã nhấn mạnh rằng các chính
phủ Đông Nam Á phải sử dụng thời gian mà người Mỹ mua cho
chúng ta bằng sự can thiệp của họ ở Việt Nam để giải quyết vấn
đề đói nghèo, thất nghiệp và tình trạng mất công bằng trong xã
hội của chúng ta. William Bundy, Thứ trưởng Hoa Kỳ phụ trách
các vấn đề Đông Á đã đọc các bài diễn văn của tôi mà tôi không
biết. Chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên tại văn phòng của tôi vào
tháng 3/1966. Ông ta cam đoan với tôi rằng Mỹ dự định sẽ đóng
một vai trò thầm lặng và không muốn duy trì một sự có mặt
quân sự ở Malaysia. Họ đã bị lôi kéo vào Việt Nam sâu hơn dự
định và không thiết tha dính líu vào một nơi nào khác ở Đông Á.
Vì những lý do lịch sử, người Mỹ muốn người Anh ở lại
Malaysia và cũng là vì “một sự phân công lao động”. Họ sẽ chừa
lại cho người Anh một phần lớn công việc quản lý chính sách vì
nước Anh là cường quốc châu Âu có khả năng làm điều đó. Nếu
Malaysia quay sang yêu cầu họ giúp đỡ kinh tế thì họ sẽ vui lòng
giúp nhưng ở mức thấp.
Tôi hỏi Mỹ sẽ phản ứng như thế nào nếu xảy ra xung đột sắc
tộc do cộng sản xúi giục giữa Singapore và Malaysia. Bundy
khẳng định họ (người Mỹ – ND) không thích bị dính líu. Tôi
nhấn mạnh rằng họ không nên xem toàn bộ cộng đồng người
Hoa tha phương như một nhóm đồng nhất bị những người cộng