đoán. Họ không có tác động qua lại trực tiếp với kinh doanh và
công nghiệp như Trường doanh nghiệp Harvard. Người Mỹ
không giống như người Anh. Họ không tự hạn chế mình trong
phạm vi nghiên cứu có phê phán quá khứ. Nghiên cứu hiện tại
để tiên đoán tương lai là thế mạnh của giới học giả Hoa Kỳ. Đội
ngũ chuyên viên của họ đã làm cho môn tương lai học trở thành
một môn học đang được coi trọng dưới danh nghĩa “nghiên cứu
vị lai”.
Mối lợi to lớn nhất đối với tôi không phải kiến thức mà là các
cuộc tiếp xúc và gặp gỡ thân thiện với các học giả là những
người không chỉ uyên bác về các vấn đề đương thời mà còn gắn
bó với các trung tâm thần kinh của chính phủ và doanh nghiệp.
Ở Harvard tôi là đối tượng của sự tò mò; một nhà hoạt động
chính trị châu Á dành thời gian để làm việc “sạc lại bình điện”,
tìm kiếm kiến thức trong học thuật khi đã bước vào tuổi 45, sau
10 năm ở nhiệm sở. Họ vui vẻ tạo điều kiện cho tôi gặp gỡ
những nhân vật lý thú, trong đó có nhà kinh tế John Kenneth
Galbraith, chuyên gia về Nhật Bản và cựu đại sứ Mỹ ở Nhật Bản
Edwin Reischauer, chuyên gia về Trung Quốc John Fairbank,
giảng viên khoa học chính trị đại học MIT Lucien Pye, người đã
thực hiện công trình nghiên cứu về du kích cộng sản ở Malaysia
trong thập kỷ 50 và Paul Samuelson giảng viên đại học MIT,
người nổi danh nhờ quyển sách giáo khoa về kinh tế do ông
soạn và là người đã giải thích cho tôi tại sao người Mỹ cần duy
trì các ngành công nghiệp giá trị gia tăng thấp như ngành dệt
chẳng hạn. Cuộc thảo luận có giá trị nhất của tôi là với Ray
Vernon, giảng viên Trường Doanh nghiệp Harvard. Ông ta cho
tôi những hiểu biết thực tế về hoạt động của các loại hình kinh
tế đương thời ở Hồng Kông và Đài Loan (đã được mô tả ở phần