hại 32.600 người Mỹ chết và 200.000 người Mỹ khác bị thương.
Điều này hầu như đã làm cạn kiệt sự kiên nhẫn của nhân dân và
các đại biểu Quốc hội Mỹ. Sức ép gia tăng hàng ngày đòi Mỹ rút
càng sớm càng tốt. Nhưng ông ta phải xem xét tác động của việc
Mỹ rút quân đối với nhân dân, chính phủ và giới quân sự Nam
Việt Nam cũng như đối với các nước láng giềng ở Đông Nam Á,
các đồng minh của Mỹ, kể cả Australia, New Zealand, Philippin,
Nam Triều Tiên, Thái Lan, và cả thế giới nói chung. Vấn đề là độ
tin cậy trong những lời hứa của Mỹ. Bất chấp sức ép của dư luận
chung trong Quốc hội Mỹ, ông ta buộc phải đảm bảo giải pháp
tốt đẹp nhất cho vấn đề này. Tôi có cảm giác rằng ông ta muốn
chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam do có sự chống đối trong
nước, nhưng không sẵn sàng làm vị Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên
chiến bại. Ông ta muốn một lối ra trong danh dự.
Lần sau, khi tôi gặp Nixon vào ngày 5/12/1970, ông ta có vẻ
mệt mỏi sau cuộc vận động căng thẳng cho bầu cử giữa kỳ. Ông
ta điểm qua các phương án về Việt Nam. Sau đó ông ta quay
sang Trung Quốc. Tôi gợi ý rằng đối với Trung Quốc ông ta nên
mở cả cửa đi và cửa sổ và bắt đầu buôn bán các mặt hàng phi
chiến lược. Khi 2/3 thành viên Liên Hiệp Quốc ủng hộ việc kết
nạp Trung Quốc, không nên để Hoa Kỳ bị xem là kẻ cản trở. Hoa
Kỳ không nên nản lòng trước thái độ tiêu cực của Mao. Tôi nhắc
lại rằng Hoa Kỳ không có biên giới chung với Trung Quốc như
nước Nga.
Tại một cuộc gặp riêng ở phòng cánh gà của Nhà Trắng,
Henry Kissinger hỏi tôi về việc cho người Nga sử dụng xưởng
đóng tàu tại căn cứ hải quân ở Singapore. Tôi cũng đã nghĩ là
qua Ted Heath, ông ta đã nghe tin Kosygin quan tâm đến việc sử
dụng căn cứ hải quân này sau khi người Anh rút. Việc này tôi đã
nói với Heath từ trước để khuyến khích ông ta không rời khỏi