tiếng trong Luật sư đoàn đã được khẳng định. Còn danh tiếng
của tôi sẽ được quyết định. Tôi đã làm phần lớn việc đối chất,
nhằm tạo ra những nghi ngờ về tính chính xác trong sự nhận
diện của những người tham gia vào việc bạo loạn dẫn đến cái
chết của Ryan. Trời đã tối lúc họ bắt giữ Ryan, lôi anh ra khỏi
chuyến xe buýt đưa anh từ Changi vào thành phố, đánh anh bất
tỉnh và thảy anh xuống một cái mương sâu đầy nước mưa trong
khu Geylang Serai của người Malay. Tôi mời viên thẩm phán,
cùng bồi thẩm đoàn và nhân chứng đi đến chỗ xảy ra sự việc vào
ban đêm để thấy đèn đường yếu ớt không soi sáng con đường
được bao nhiêu. Tôi đặt câu hỏi rằng những ai chứng kiến một
đám hỗn loạn chừng 40–50 người Hồi giáo Malay và Ấn Độ
trong ánh sáng yếu ớt đó, làm thế nào có thể nhận ra những
người ngồi ghế bị cáo kia chính là những kẻ đã tấn công nạn
nhân. Tại nơi xảy ra tội ác, họ đứng cách kẻ tấn công bao xa? Họ
thấy các thân chủ của tôi trong bao lâu? Những kẻ tấn công đó
mặc quần áo gì? Có dấu vết hay vẻ gì đặc biệt gì trên khuôn mặt
của các bị cáo?
Sau cuộc đối chất, Oehlers và tôi tổng kết lại. Chúng tôi chỉ ra
mọi mâu thuẫn giữa những gì nhân chứng khai tại lần thẩm
vấn sơ bộ và tại chính phiên toà, đặc biệt là về khả năng nhìn rõ.
Việc đó giống như đi qua một cánh cửa mở sẵn, khi các vị bồi
thẩm người Ấn và Hoa chẳng vui sướng gì trong việc kết tội nếu
như điều đó có nghĩa là đưa một người đến chỗ chết. Vì vậy bồi
thẩm đoàn thấy thật sự nhẹ nhõm khi có thể tuyên bố tha bổng
tất cả những người bị buộc tội sát nhân. Nhưng sự thật lại đè
nặng lên lương tâm họ và họ kết luận chín người trong số các bị
cáo đã phạm tội cố ý đả thương nghiêm trọng. Ba trong số các
thân chủ của tôi được trả tự do. Một người chỉ bị năm năm cấm