Tôi phàn nàn với mẹ và bà nói lại với bà ngoại. Nhưng bà mẹ
22 tuổi của tôi thì không thể cãi được bà ngoại đã hai lần lấy
chồng, nuôi lớn đến chín đứa con và lại quyết tâm là tôi phải
học được chút đỉnh tiếng Hoa. Nhưng bà ngoại tôi cũng cho
phép đổi trường và tôi sang học trường Choon Guan ở khu Joo
Chiat cách nhà tới một dặm và tôi phải đi bộ đến đó mỗi ngày.
Ngôi trường này thì đường hoàng hơn, một tòa nhà gỗ hai tầng
có nền xi măng, và khoảng 10 phòng học đúng quy cách có bàn
ghế rời cho 35 tới 40 học sinh. Những bài học bằng tiếng Hoa thì
vẫn gian nan như vậy. Ở nhà tôi nói tiếng Anh với cha mẹ tôi,
tiếng Malay bồi – pha trộn giữa tiếng Malay với tiếng Hoa – với
ông bà ngoại, rồi tiếng Malay pha một ít tiếng Hakka với bạn bè
và những đứa trẻ con nhà ngư dân. Tiếng Quan thoại thì hoàn
toàn xa lạ với tôi, và chẳng dính dáng gì tới cuộc sống của tôi.
Tôi chẳng hiểu gì lắm những điều các thầy giáo nói.
Sau hai ba tháng như thế, tôi lại xin mẹ tôi cho chuyển sang
một trường dạy bằng tiếng Anh. Lần này thì bà thuyết phục
được bà ngoại và tháng 1/1930 tôi vào học trường tiếng Anh
Telok Kurau. Bây giờ tôi hiểu các thầy giáo nói gì và chỉ cố gắng
chút đỉnh là có tiến bộ. Học sinh đa số là người Hoa, có một ít
người Ấn và một ít người Malay chuyển từ trường Telok Kurau
tiếng Malay qua.
Cha mẹ tôi e rằng tôi kém chuyên cần, và mẹ tôi giao cho chú
Keng Hee một nhiệm vụ là buộc tôi chuẩn bị bài ngày mai cho
chu đáo. Mỗi tuần ba lần trước giờ ăn tối, tôi phải ngồi với chú
một tiếng. Ngay từ hồi đó tôi đã thấy thật kỳ cục khi ông chú ít
học nhất trong các chú của tôi lại được giao nhiệm vụ kiểm tra
việc làm bài ở nhà của tôi.
Tôi được phép nhảy thẳng từ lớp đồng ấu 1 lên lớp 1, không
phải qua lớp đồng ấu 2. Đến hết năm lớp 5, sau bảy năm tiểu học