từ khác nhau để làm thành động từ, danh từ và tính từ. Nhưng
cả hai cũng đều là tiếng Hoa, và may thay tiếng Quan thoại của
tôi cũng đủ giỏi để có thể đi thẳng vào tiếng Hokkien mà không
phải bắt đầu từ đầu, cũng như xuất phát từ tầng hai hay ba của
một tòa nhà 25 tầng. Vậy mà lần đầu tiên tôi phát biểu bằng
tiếng Hokkien tại Hong Lim, trẻ em trong đám công chúng đã
cười rộ vì những cái sai của tôi – âm sai, giọng sai, câu cú sai,
hầu như cái gì cũng đều sai. Nhưng tôi không thể cứ đứng đó
mà sượng sùng. Đó là một vấn đề có tính chất sống còn. Đó
không chỉ là việc đấu tranh với Ong. Tôi đang chuẩn bị cho một
cuộc tranh tài không thể nào tránh khỏi với Lim Chin Siong và
những người cộng sản. Tất nhiên tôi sẽ thua nếu tôi không thể
nói được phương ngữ đó đủ thành thục để truyền đạt quan
điểm của mình cho khối đa số người Hoa thất học hoặc ít học
này, vốn không hiểu được tiếng Quan thoại. Vào cuối chiến dịch,
và sau vô số bài phát biểu, tôi đã nói được tiếng Hokkien đủ cho
người ta hiểu.
Để học một ngôn ngữ mới ở vào tuổi ngoài 30 như tôi, trong
khi còn phải ngập đầu trước hàng khối giấy tờ được đóng dấu
nào là Ngay, Khẩn, Bí mật, Tối mật, rồi biết bao là hồ sơ có
những dấu thập đỏ to tướng nằm trên bìa hồ sơ cộng với hàng
dấu Cicero (trình đích danh), đòi hỏi một sức tập trung và nỗ lực
gần như là siêu phàm, tôi chẳng thể làm nổi được chuyện đó
nếu như không có một động lực mang tính bắt buộc. Khi tôi bắt
đầu, đúng như một ngạn ngữ Trung Quốc đã nói, nó khó còn
hơn cử đỉnh trước đền. Ngay cả trong lúc ngồi xe đến chỗ mít-
tinh tôi cũng phải nhẩm bài, ôn lại những câu mới. Đôi khi thầy
giáo của tôi phải ở bên cạnh để sửa sai ngay cho tôi sau bài phát
biểu đầu tiên và trước bài diễn thuyết kế tiếp. Mỗi khi rỗi tôi
phải tập phát âm lại cho đúng, học thuộc những từ mới để