chúng khắc sâu vào đầu sao cho có thể thốt ngay ra cửa miệng
mà không phải nhìn xuống bản viết sẵn. Tôi phải học cấp tốc.
Bằng sự thực hành tại chỗ và lặp đi lặp lại qua suốt mấy
tháng liền, nói mà không cần có ghi chép, lầm lỗi và sửa đi sửa
lại hoài, cuối cùng tôi cũng đã nói sõi phương ngữ này, và có thể
phát biểu cả nửa giờ đồng hồ mà không phải mò mẫm chữ nghĩa
và câu cú hay loay hoay tìm chúng trong bản viết sẵn có gạch
dưới của mình. Công chúng đã thấy hết những điều này và tôi
đã giành được lòng thán phục của họ. Lúc mới đầu, tôi lúng
túng, vụng về và gần như đáng buồn cười. Nhưng nay tôi đã
đứng trước mặt họ, bỗng dưng có thể diễn đạt tư tưởng của
mình bằng ngôn ngữ của họ một cách trôi chảy. Tôi có thể
chẳng biết dùng thành ngữ, thậm chí chẳng có văn phạm gì cả,
nhưng lời tôi nói chẳng hề sai trệch ý nghĩa, và được nói ra với
cả sự hùng hồn, đầy cảm xúc và đầy tin tưởng khi tôi biện luận,
ca tụng, cảnh cáo, và cuối cùng cũng đã lôi kéo được một số
người đi theo mình.
Tôi đã trở thành người phát biểu phương ngữ đó cho chính
mình. PAP không có một Lim Chin Siong hay một Ong Eng
Guan, vốn là những diễn giả người gốc Hokkien. Dân chúng biết
tôi bước đi từ con số không vào năm 1961 và do vậy đã không
nghi ngờ gì về quyết tâm và nghị lực của tôi. Tôi là người Hakka,
và người Hakka là nhóm dân thiểu số sống giữa những người
nói các phương ngữ khác, và được coi là những người có khiếu
ngoại ngữ. Điều này đã tăng thêm huyền thoại. Họ nghĩ tôi học
ngôn ngữ mới một cách dễ dàng cũng là điều tự nhiên. Nhưng
chỉ có Choo mới biết tôi đã phải chật vật như thế nào để nắm
được tiếng Hokkien.
Ngay sau trở lực đó ở Hong Lim, chúng tôi đã phải đối đầu
với một trở lực khác nữa. Khoảng chín ngày trước khi có cuộc