về môn toán lý thuyết. Nhưng cô Kwa Geok Choo lại đứng đầu
môn tiếng Anh và kinh tế, và có lẽ trong môn sử, môn thứ ba
của cô, cũng vậy. Trong bài thi thống kê, một phần của môn
kinh tế, tôi đạt điểm cao hơn cô chút đỉnh. Tôi hiểu rằng mình
sẽ phải ganh đua quyết liệt để giành học bổng Nữ hoàng.
Còn có những vấn đề khác nữa. Chính nhờ hồi tưởng mà tôi
nhận ra rằng Đại học Ra es là bước đầu của tôi đi vào lĩnh vực
chính trị về chủng tộc và tôn giáo. Trong một thuộc địa Anh
không có phân biệt chủng tộc, người Malay ở Singapore đã quen
được đối xử như mọi người khác. Nhưng vào tháng 6/1940, lần
đầu tiên tôi gặp một số đáng kể những người Malay đã được
sinh ra và lớn lên trong một chế độ khác. Trong các tiểu bang
liên minh của người Malay (Federated Malay States – FMS) như
Perak, Selangor, Penang và Negeri Sembilan, và hơn thế nữa tại
những bang của người Malay không liên minh (Unfederated
Malay States) như Johor, Kedah, Perlis, Kelantan và Terengganu,
người Malay bản xứ có được những ưu quyền chính trị và kinh
tế. Tại những bang FMS, chỉ có năm học bổng theo học Đại học
Ra es là dành cho những người không thuộc chủng Malay,
trong khy sinh viên Malay có lựa chọn nhiều hơn, cũng như tại
các bang không liên minh. Trong số hàng trăm sinh viên được
nhập học hàng năm thì có khoảng 20 người Malay từ lục địa với
học bổng do chính quyền bang của họ cung cấp.
Có một tinh thần đoàn kết rất mạnh trong số những người
Malay, mà sau này tôi hiểu ra là xuất phát từ cảm giác bị đe dọa,
từ nỗi lo sợ bị lấn át bởi những sinh viên người Hoa và người Ấn
năng động và chăm chỉ hơn. Một sinh viên Malay cùng năm với
tôi sau này sẽ trở thành thủ tướng Malaysia, Abdul Razak bin
Hussain, học chung lớp tiếng Anh và kinh tế với tôi, nhưng
chúng tôi không phải bạn thân. Anh ta là dòng dõi quý tộc