mình bị đưa vào rừng già nhiệt đới, đối mặt với người Nhật. Đó
là bi kịch cho họ, và là điều tai hại cho tinh thần chiến đấu của
các đội quân Anh và Ấn được họ tới tiếp viện.
Trong khi đó, cha tôi, vốn đang làm quản lý cho kho xăng
của hãng Shell tại Batu Pahat, cách bờ biển Tây Malaya độ 100
dặm về phía Bắc, đã được lệnh rút lui. Ông trở lại đảo bằng chiếc
xe hơi nhỏ xíu trước khi đường đê bị phá đứt. Chúng tôi vẫn hy
vọng pháo đài Singapore sẽ cầm cự được. Tôi nghĩ rằng sẽ có
nhiều thiệt hại nhân mạng nhưng rồi người Anh sẽ tiến công và
sau cùng chúng tôi được cứu thoát. Nhưng từng ngày qua – hay
thực ra là từng giờ qua, sau tuần lễ đầu của tháng 2 – tôi ngày
càng cảm thấy, trong thâm tâm, rằng Singapore chẳng phải
Malta
và nó chẳng chịu được cuộc phong tỏa lâu dài.
Giữa tháng 1, các trường học đóng cửa. Khi đạn pháo kích
ngày càng rơi gần trung tâm thành phố, mẹ tôi đề nghị cả nhà
dọn về chỗ ông ngoại vốn nằm ngoài ngoại ô và ít có nguy cơ
trúng pháo kích hơn. Tôi ủng hộ việc này nhưng nói với bà rằng
tôi sẽ ở lại để coi chừng ngôi nhà trên đường Norfolk này, đồng
thời tiếp tục đi làm công tác trợ y tại đại học Ra es. Tôi sẽ
không ở một mình vì ông Koh Teong Koo, người làm vườn của
gia đình, cũng ở lại để coi sóc nhà cửa khi tôi đi công tác ở
trường. Ông chính là người đã kéo xe đưa đón đám em tôi đi học
mỗi ngày từ năm 1937. Chúng tôi đã đào một hầm tránh bom,
nóc bằng gỗ đắp đất, trong đó mẹ tôi chất đầy gạo, muối, tiêu,
nước tương, cá muối, đồ hộp, sữa đặc và tất cả những gì chúng
tôi cần trong một thời gian dài. Tiền bạc không thành vấn đề vì
hãng Shell đã rộng rãi trả cho cha tôi liền mấy tháng lương khi
ông được lệnh rút khỏi kho xăng ở Batu Pahat.
Giữa khung cảnh đen tối ấy, tôi vẫn đi xem phim được vài lần
mỗi khi không có công tác. Nó giúp tôi quên đi tương lai ảm