phượng của họ. Tôi sẽ đốt những nén hương trước bàn thờ, một
số thuộc đạo Phật, một số thuộc đạo Lão. Những người Malay sẽ
chào mừng tôi với những nhóm kompang, một tập hợp 12 hoặc
14 chàng trai với trống đứng và trống cầm tay, còn các bậc
huynh trưởng của họ sẽ đặt lên đầu tôi một cái tanjak, một
miếng vải gấm thêu kim tuyến được gấp thành cái mũ trùm
dành cho các thủ lĩnh.
Những người ủng hộ Barisan sẽ xếp hàng trên vài con đường,
la ó, huýt sáo và chửi bới tôi. Khi tôi đi ngang trường Cao trung
của người Hoa, khoảng 40 – 50 nam sinh với khăn bịt mặt giơ
các áp phích lên án và chửi rủa tôi như một kẻ phản bội nhân
dân. Một buổi chiều ở Whampoa, những tên côn đồ Barisan với
những hình xăm trên cánh tay cản đường tôi và cố đẩy tôi
xuống một con rãnh sâu đầy nước mưa, nhưng nhân viên an
ninh đã nhanh chóng can thiệp và đối phó với họ, để cho tôi
nhảy ra xa. Những thành viên nghiệp đoàn thân Barisan trên
những tầng nhà trên cao của họ gào lên những lời chửi rủa, và
một đêm ở Hong Lim họ thét lên những lời đe dọa tôi và trương
những biểu ngữ phản đối trên mái nhà. Khi tôi bảo tay quay
phim của chương trình ti-vi xoay ánh đèn về phía họ và ghi
hình, thì họ liền tắt đèn trong nhà và biến mất. Tôi mời họ
xuống, lộ diện và tranh luận trường hợp của họ với tôi. Họ từ
chối, điều đó cho phép tôi chỉ ra cho hàng nghìn người quanh đó
thấy là khi phe đối lập phải đối chất với “quần chúng” nơi công
khai, họ bèn tắt đèn và lẩn vào bóng tối.
Các chuyến đi khiến tôi kiệt sức và hao mòn nghị lực. Tôi
thường bắt đầu lúc 8 giờ sáng ngày Chủ nhật và ngay sau bữa
trưa vào những ngày khác trong tuần. Buổi chiều trời luôn
nóng, và trong một chuyến đi như vậy tôi phải đọc một bài diễn
văn ngắn khoảng 10 – 15 phút ở mỗi chỗ dừng, mà các bài diễn